Chủ Nhật, Tháng 6 29, 2025

Xây dựng văn hoá đổi mới sáng tạo toàn dân là cốt lõi tạo nên thành công

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Lễ hưởng ứng Ngày Sáng tạo và Đổi mới sáng tạo thế giới.
Chung tay thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo (ĐMST), tạo dựng văn hoá ĐMST trong toàn xã hội, nâng cao nhận thức về vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST&CĐS), sẽ đem lại cơ hội để xây dựng, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết những thách thức hiện tại và tương lai, đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới đạt các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đất nước bền vững và theo hướng hiện đại.

Để đổi mới sáng tạo toàn dân

Phát biểu tại Lễ hưởng ứng Ngày Sáng tạo và Đổi mới sáng tạo thế giới năm 2025, diễn ra chiều ngày 21/4 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Ngày 21/4 không chỉ là ngày của nhà khoa học hay doanh nghiệp công nghệ, mà là dịp để tôn vinh tư duy sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong mọi lĩnh vực. Từ người nông dân cải tiến máy móc nông nghiệp, đến học sinh sáng tạo trong học tập, khuyến khích tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới” trong toàn xã hội, kết nối sáng tạo và đổi mới với phát triển bền vững.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Lễ hưởng ứng Ngày Sáng tạo và Đổi mới sáng tạo thế giới.

Bộ trưởng cho biết, các nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra, ĐMST là chìa khoá giúp các quốc gia đang phát triển vượt qua bẫy thu nhập trung bình. ĐMST là “cửa ngách” mang tính chiến lược để các nước đang phát triển rút ngắn khoảng cách, tối ưu các nguồn lực hạn chế, và tạo ra giá trị thực tiễn từ những gì sẵn có để phát triển nhanh. Theo Bộ trưởng, cần xây dựng một hệ sinh thái ĐMST mà ở đó, doanh nghiệp có thể cải tiến sản phẩm phù hợp với thị trường trong nước, người dân có thể sáng tạo trong điều kiện thực tế của mình, nhà nước đóng vai trò kiến tạo môi trường, thể chế và động lực để đổi mới sáng tạo không bị cản trở, mà được khơi thông và lan toả.

Theo Bộ trưởng, văn hoá đổi mới là văn hoá không ngừng học hỏi, dám thử nghiệm, liên tục cải tiến và thích ứng. ĐMST không cần phải đao to búa lớn mà có thể bắt đầu từ những cải tiến nhỏ, thiết thực trong đời sống hằng ngày. Dẫn chứng điển hình là Phần Lan là một quốc gia đổi mới thầm lặng, học hỏi liên tục và cải tiến vi mô. Đó là một xã hội học hỏi, xã hội ĐMST toàn dân. Phần Lan tin rằng, những cải tiến nhỏ từ 5 triệu người dân còn giá trị hơn phát minh từ 500 nhà khoa học, nói theo cách này thì cải tiến nhỏ từ 100 triệu người Việt Nam sẽ không kém gì 10.000 nhà khoa học.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Bộ KH&CN đã được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ xây dựng đề án Quốc gia khởi nghiệp, trong đó nội dung cốt lõi là hình thành tinh thần ĐMST trong toàn dân, đưa ĐMST trở thành lối sống, phong cách sống của mọi người dân, mọi tổ chức. Xây dựng văn hoá ĐMST, khuyến khích khám phá, và khoan dung với thất bại.

ĐMST là động lực phát triển, thúc đẩy đổi mới chính là thúc đẩy phát triển, hoạch định đổi mới là hoạch định tương lai. Đổi mới hoạt động KH&CN để hướng vào giải quyết các bài toán lớn của quốc gia.

Cần chuyển đổi số toàn diện

Theo Bộ trưởng, muốn sáng tạo và đổi mới toàn dân thì phải CĐS toàn diện, số hoá toàn bộ thế giới thực, đưa mọi hoạt động lên môi trường số. Môi trường số là môi trường lý tưởng cho mọi ý tưởng có thể hiện thực hoá nhanh nhất, vì nó phi vật lý, phi khoảng cách và phi tiếp xúc.

Người Việt Nam phát huy tiềm năng lớn nhất khi một hoạt động được chuyển thành phong trào toàn dân, từ kháng chiến đến đổi mới kinh tế, từ giáo dục đến CĐS. Đây là sức mạnh văn hoá – xã hội rất đặc trưng và phải được xem là trụ cột trong chiến lược phát triển ĐMST quốc gia. Một chiến lược mà dựa trên văn hoá thì chắc chắn sẽ thành công, một chiến lược không dựa trên văn hoá thì thường thất bại

Ngày 21/4 vừa là Ngày Sáng tạo và Đổi mới sáng tạo thế giới cũng vừa là Ngày Văn hoá ĐMST Việt Nam. Việt Nam không chỉ phát triển KH&CN, mà còn nuôi dưỡng một nền văn hoá ĐMST toàn dân. Khơi dậy tinh thần sáng tạo toàn dân trong kỷ nguyên số, mở rộng ĐMST ra ngoài phòng thí nhiệm tới doanh nghiệp, trường học, công sở, cộng đồng và địa phương. Mỗi năm đến dịp này, chúng ta sẽ tổ chức Tuần lễ ĐMST, phát động phong trào “Mỗi người dân một ý tưởng cải tiến, mỗi cán bộ công viên chức đổi mới từ việc nhỏ nhất”.

Bộ trưởng nhấn mạnh, xây dựng văn hoá ĐMST toàn dân sẽ là cốt lõi tạo nên thành công của công cuộc đột phá phát triển KHCN,ĐMST và CĐS của Việt Nam mà Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát động.

Trong bối cảnh cả nước đang tập trung, quyết liệt triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, ĐMST&CĐS quốc gia, để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và nhân dân trong việc thúc đẩy hoạt động ĐMST phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, việc tổ chức Lễ hưởng ứng Ngày Sáng tạo và Đổi mới sáng tạo thế giới có ý nghĩa lớn.

Năm 2025 là năm thứ tư Bộ KH&CN tổ chức Lễ hướng ứng Ngày Sáng tạo và Đổi mới sáng tạo thế giới, với mục tiêu: Tuyên truyền, phổ biến trong cộng đồng và toàn xã hội cùng chung tay thúc đẩy hoạt động ĐMST; tạo dựng văn hoá ĐMST trong toàn xã hội; nâng cao nhận thức về vai trò của KHCN, ĐMST và CĐS trong phát triển kinh tế – xã hội bền vững và thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của con người; thúc đẩy phát triển KHCN,ĐMST&CĐS, để KH&CN trở thành lực kéo của nền kinh tế, ĐMST là động lực chính của tăng trưởng, CĐS là công cụ chiến lược nâng cao năng lực ĐMST quốc gia; thúc đẩy phát triển hệ thống ĐMST quốc gia, tăng cường kết nối giữa khu vực doanh nghiệp – nhà nước – viện/trường – startup – nhà đầu tư – cộng đồng với vai trò của các nền tảng số kết nối cung – cầu công nghệ, chuyên gia – ý tưởng.

Chủ đề hưởng ứng Ngày Sáng tạo và Đổi mới sáng tạo thế giới năm 2025: “Đổi mới sáng tạo – Nghĩ khác, Làm khác để tốt hơn”; “Đổi mới sáng tạo – Doanh nghiệp tiên phong – Quốc gia thịnh vượng”; “Đổi mới sáng tạo toàn dân – Chuyển đổi số toàn diện – Vì cuộc sống tốt đẹp hơn”.

Nguồn: Trung tâm Truyền thông KH&CN

VIỆT NAM – PHÁP: ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VỀ KHCN, ĐMST, SỐ HOÁ VÀ NĂNG LƯỢNG HẠT NHÂN

Sáng 26/5, tại Phủ Chủ tịch, trong khuôn khổ hội đàm cấp cao giữa Chủ tịch nước Lương Cường và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy đã đại diện Việt Nam trao đổi hai văn kiện hợp tác quan trọng với phía Pháp:

Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy và Bộ trưởng phụ trách bên cạnh Bộ trưởng châu Âu và Ngoại giao, về Khối Pháp ngữ và các quan hệ đối tác quốc tế Pháp Thani Mohamed Soilihi trao đổi Hiệp định hợp tác về Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo

Hiệp định hợp tác về KH, CN & ĐMST giữa Chính phủ hai nước, ký kết với Bộ trưởng phụ trách Khối Pháp ngữ và quan hệ đối tác quốc tế Pháp Thani Mohamed Soilihi.

Ý định thư về hợp tác năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, trao đổi với Bộ trưởng Kinh tế, Tài chính, Chủ quyền công nghiệp và số hóa Pháp Eric Lombard.

Đây là dấu mốc quan trọng, mở ra chương mới trong quan hệ chiến lược Việt – Pháp, hướng tới phát triển bền vững khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Từ ngày 01/7/2025, Bộ KH&CN sẽ triển khai Cuộc điều tra Đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp năm 2025, thu thập thông tin từ 2.000 doanh nghiệp quy mô nhỏ trở lên, hoạt động trong các lĩnh vực:
• Công nghiệp chế biến, chế tạo
• Thông tin và truyền thông
• Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
Đối tượng điều tra là các doanh nghiệp hạch toán độc lập, được thành lập và có hoạt động sản xuất – kinh doanh trước ngày 31/12/2024 theo Luật Doanh nghiệp.
Cuộc điều tra do Cục Thông tin, Thống kê chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan, thực hiện đúng kế hoạch và phương án đã được phê duyệt.
Đây là hoạt động quan trọng nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu về đổi mới sáng tạo, phục vụ hoạch định chính sách, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

 

“Bộ tứ trụ cột” giúp Việt Nam cất cánh

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết 66-NQ/TW và 68-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Đến thời điểm hiện nay có thể gọi 4 Nghị quyết (68, 66, 57, 59) là “Bộ tứ trụ cột” để giúp chúng ta cất cánh. Tổng Bí thư kêu gọi toàn hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hãy chung tay, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế, để cùng nhau đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc Việt.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.

Sáng ngày 18/5/2025, tại Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tiếp từ Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội và kết hợp trực tuyến tới 37.000 điểm cầu ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, cơ quan, đơn vị trên cả nước, với hơn 1,5 triệu đại biểu tham dự Hội nghị tại các điểm cầu. Hội nghị được truyền hình trực tiếp trên các kênh, sóng của Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm dự Hội nghị. Cùng dự Hội nghị có Chủ tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn. Cùng dự còn có các nguyên Chủ tịch nước: đồng chí Nguyễn Minh Triết (tại điểm cầu Bình Dương), đồng chí Trương Tấn Sang (tại điểm cầu Long An); nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (tại điểm cầu Thành phố Hồ Chí Minh); nguyên Chủ tịch Quốc hội: đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân; Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú.

Cùng dự Hội nghị có các Ủy viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng; các đảng ủy trực thuộc Trung ương; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương. Dự tại các điểm cầu tỉnh, thành ủy có các Ủy viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng; Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban Thường vụ các tỉnh, thành ủy; lãnh đạo chủ chốt cấp ủy, chính quyền các cấp.

Về phía Đảng bộ Bộ KH&CN, các đồng chí lãnh đạo Bộ tham dự trực tiếp tại Hội trường Diên Hồng, các đồng chí cán bộ, đảng viên còn lại tham dự trực tuyến tại 13 điểm cầu trực thuộc Bộ.

Trước khi tham dự Hội nghị, tại điểm cầu chính Nhà Quốc hội, các đại biểu đã tham quan Triển lãm “Những thành tựu trong xây dựng và thực thi pháp luật” và “Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân”.

Tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trình bày chuyên đề về nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 68-NQ/TW, tập trung vào phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện nghị quyết. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trình bày chuyên đề về Nghị quyết số 66-NQ/TW, nhấn mạnh đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

“Bộ tứ trụ cột” giúp Việt Nam cất cánh

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đến thời điểm hiện nay có thể gọi 4 Nghị quyết (Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới) là “Bộ tứ trụ cột” để giúp chúng ta cất cánh.

Tổng Bí thư kêu gọi toàn hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hãy chung tay, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế, để cùng nhau đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc Việt Nam.

Tổng Bí thư nêu rõ, nhìn về tương lai, chúng ta xác định rõ: Muốn phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam không thể đi theo lối mòn cũ. Chúng ta phải dám nghĩ lớn, hành động lớn, thực hiện những cải cách lớn với quyết tâm chính trị cao nhất và nỗ lực bền bỉ nhất. Bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành trong thời gian gần đây sẽ là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Muốn đạt hiệu quả cao nhất phải triển khai tốt đồng thời các nghị quyết.

Điểm cầu Trụ sở Bộ KH&CN – 18 Nguyễn Du, Hà Nội

Bốn nghị quyết lớn của Bộ Chính trị đã cùng tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Mặc dù mỗi nghị quyết tập trung vào một lĩnh vực trọng yếu, chúng liên kết chặt chẽ, bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện.

Cả bốn nghị quyết đều thống nhất mục tiêu: Xây dựng nền tảng vững chắc để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Nghị quyết 66-NQ/TW yêu cầu hoàn thiện thể chế pháp luật minh bạch, hiện đại, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Nghị quyết 57-NQ/TW xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là trụ cột tăng trưởng mới. Nghị quyết 59-NQ/TW mở rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế chủ động, tích cực. Nghị quyết 68-NQ/TW thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực trung tâm cho nền kinh tế.

Sự liên kết này không chỉ mang tính định hướng chung mà còn thể hiện rõ sự phụ thuộc lẫn nhau trong thực tiễn. Nếu thể chế không minh bạch (Nghị quyết 66), thì kinh tế tư nhân khó phát triển (Nghị quyết 68), khoa học công nghệ thiếu môi trường sáng tạo (Nghị quyết 57) và hội nhập quốc tế thiếu hiệu quả (Nghị quyết 59). Ngược lại, nếu đổi mới sáng tạo không đột phá, kinh tế tư nhân sẽ yếu, hội nhập quốc tế sẽ bị hạn chế. Nếu hội nhập không chủ động, bản thân thể chế và các động lực trong nước cũng khó cải cách toàn diện.

Tổng Bí thư chỉ rõ, điểm đột phá chung của cả bốn nghị quyết là tư duy phát triển mới: Từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc”. Đây là bước chuyển tư duy căn bản, kế thừa thành tựu đổi mới 40 năm qua và phù hợp với xu thế toàn cầu trong kỷ nguyên số.

Tất cả các nghị quyết đều nhấn mạnh vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, cùng sự tham gia thực chất của doanh nghiệp, người dân và giới trí thức. Các trục triển khai như thi hành pháp luật, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển tư nhân và hội nhập quốc tế đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, kiểm tra, giám sát thường xuyên và đánh giá hiệu quả.

Tổng Bí thư nêu rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới (2025–2030) đó là: Hoàn thiện thể chế pháp luật hiện đại, đồng bộ, thúc đẩy phát triển. Trong 5 năm tới, triển khai toàn diện Nghị quyết 66, cải cách mạnh mẽ quy trình xây dựng, thi hành và đánh giá pháp luật. Mục tiêu: xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập sâu rộng. Kiên quyết xóa bỏ “luật khung, luật ống”, khắc phục pháp luật chồng chéo, đồng thời hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho đầu tư và phát triển.

Đột phá trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Giai đoạn 2025–2030 phải tạo đột phá mạnh mẽ thông qua triển khai quyết liệt các chương trình quốc gia về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, lan tỏa tới doanh nghiệp và địa phương. Hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư R&D, thương mại hóa công nghệ; xây dựng hạ tầng dữ liệu và nền tảng số cho chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Đây là nền tảng kỹ thuật quyết định bứt phá năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tăng tốc hội nhập quốc tế toàn diện, chủ động, hiệu quả: Chủ động đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, tận dụng cơ hội từ chuỗi cung ứng toàn cầu và dòng vốn đầu tư quốc tế. Chuyển hóa cam kết hội nhập thành tăng trưởng thực tế, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư chất lượng cao. Đồng thời, tham gia xây dựng và định hình luật chơi quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, an ninh mạng, qua đó khẳng định vị thế và bảo vệ lợi ích quốc gia.

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực chất, trở thành “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế quốc gia: Tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về đất đai, tín dụng, công nghệ, thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp linh hoạt, năng động. Xây dựng chiến lược phát triển các tập đoàn tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh khu vực, quốc tế, dẫn dắt chuỗi giá trị toàn cầu. Trọng tâm: bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh minh bạch, công khai, tạo động lực thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển nhanh, bền vững.

Tạo không gian phát triển mới cho đất nước

Tổng Bí thư nhấn mạnh, năm 2025 là năm bản lề mở ra kỷ nguyên mới, trong khi mục tiêu trở thành quốc gia phát triển chỉ còn hai thập niên phía trước. Nếu không bắt kịp nhịp độ cải cách, không tạo đột phá ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ lỡ mất cơ hội vàng và tụt lại trong cuộc đua toàn cầu. Vì vậy, về những nhiệm vụ cấp bách trong năm 2025, Tổng Bí thư đề nghị cần triển khai các nhiệm vụ một cách nhanh chóng, bài bản, thực chất, lấy hiệu quả thực tế làm tiêu chí đánh giá; toàn hệ thống chính trị khẩn trương thực hiện 8 nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện và ban hành các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia thực hiện 4 nghị quyết, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình và phân công cụ thể. Đồng thời, lập bộ chỉ số theo dõi, đánh giá định kỳ.

Thứ hai, khẩn trương rà soát toàn diện hệ thống pháp luật, triển khai sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định bất cập theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW…

Thứ ba, khởi động ngay các chương trình trọng điểm về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phê duyệt, triển khai các chương trình quốc gia; hình thành thêm các trung tâm đổi mới sáng tạo mới; xây dựng khung pháp lý cho mô hình sandbox.

Thứ tư, tập trung đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, chủ động chuẩn bị tham gia các hiệp định mới tận dụng cam kết hội nhập để chuyển hóa thành tăng trưởng thực tế…

Thứ năm, thực hiện đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, số hóa dịch vụ công, hỗ trợ vốn, công nghệ, chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng đề án phát triển tập đoàn tư nhân lớn.

Thứ sáu, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện các nghị quyết; thành lập các Ban chỉ đạo chuyên trách cấp trung ương và cấp tỉnh; bảo đảm cơ chế chỉ đạo thống nhất, kiểm tra, giám sát thường xuyên.

Thứ bảy, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để triển khai nghị quyết: đào tạo chuyên sâu về pháp luật hiện đại, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và quản trị doanh nghiệp; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ có tư duy đổi mới, năng lực số và khả năng thích ứng toàn cầu.

Thứ tám, đẩy mạnh truyền thông, tạo đồng thuận xã hội: xây dựng các chương trình truyền thông quốc gia về từng nghị quyết; tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ, doanh nghiệp, người dân và giới trí thức, huy động trí tuệ xã hội cho quá trình triển khai.

Tổng Bí thư khẳng định, hơn bao giờ bao giờ hết, hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương là một khối đoàn kết, thống nhất, quyết tâm, quyết liệt lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, chuẩn bị thật tốt để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, phồn vinh và hạnh phúc. Kể từ Hội nghị Trung ương X khóa XIII (9/2024) đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm việc ngày đêm tập trung giải quyết nhiều vấn đề cốt lõi, tháo gỡ những “điểm nghẽn”, tạo không gian phát triển mới cho đất nước. Triển khai quyết liệt nội dung Nghị quyết 18 của Ban chấp hành Trung ương về “một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức của bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả”; xây dựng chính quyền địa phương hai cấp; sắp xếp lại đơn vị hành chính để “cất cánh”… những công việc nêu trên không chỉ được cán bộ, đảng viên nghiên túc triển khai mà điều quan trọng hơn là hầu hết nhân dân trong cả nước theo dõi, đồng tình, ủng hộ, coi đây thực sự là cuộc cách mạng của đất nước trong thời kỳ mới.

Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hùng cường, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục đồng lòng, chung sức, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Vì “biết đồng sức, biết đồng lòng/ việc gì khó, làm cũng xong”, Tổng Bí thư yêu cầu, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình; chủ động, sáng tạo, đoàn kết thi đua yêu nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân, làm cho nhân dân có đời sống thực sự ngày một tốt hơn. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam phải trở thành chiến sĩ tiên phong trên mặt trận phát triển đất nước.

Tổng Bí thư lưu ý, Lãnh đạo các cấp, từ Trung ương đến địa phương, phải gương mẫu, tiên phong trong đổi mới tư duy và hành động; dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích quốc gia, thậm chí dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung. Các chương trình hành động phải được triển khai quyết liệt, bài bản, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo năng lực và kết quả công tác. Tiếp tục kiến nghị, đề xuất để xây dựng những Nghị quyết mới theo phương châm “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” như Bác Hồ từng dạy.

Người dân và doanh nghiệp phải được xác định là trung tâm và chủ thể sáng tạo trong phát triển; cần bồi đắp mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp quốc gia, khơi dậy nguồn lực đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, phát triển kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường hiện đại hóa, hội nhập.

 

Với truyền thống anh hùng, trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng vươn lên không ngừng của toàn dân tộc, Tổng Bí thư Tô Lâm tin tưởng, Việt Nam sẽ tiếp tục tiến bước vững chắc trên con đường phát triển nhanh và bền vững. Mỗi cấp ủy, chính quyền, tổ chức, cá nhân cần xác định rõ trách nhiệm của mình, biến cam kết chính trị thành kết quả cụ thể, thiết thực. Hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới – Khát vọng – Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu vào năm 2045.

Nguồn: Bộ KH&CN

Hợp tác bền chặt vì tương lai dựa trên tri thức, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Hội thảo quốc tế “Chia sẻ kinh nghiệm quản lý hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” không chỉ là diễn đàn trao đổi chuyên môn, mà còn thể hiện tầm nhìn chung và mối quan hệ hợp tác bền vững giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) trong việc kiến tạo một tương lai dựa trên tri thức, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST).

Ngày 6/5/2025 tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Phái đoàn EU tại Việt Nam, Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội và Đại sứ quán Estonia tại Bắc Kinh thông qua chương trình hỗ trợ kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm TAIEX tổ chức Hội thảo quốc tế nói trên. Đây là một trong các hoạt động thiết thực hưởng ứng Ngày KH&CN Việt Nam (18/5).

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy nhấn mạnh ý nghĩa đặc biệt của Hội thảo trong tháng 5 – tháng gắn liền với nhiều dấu mốc quan trọng của đất nước. Năm 2025, Việt Nam kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước – một dấu son lịch sử khẳng định hành trình kiên cường, phát triển của dân tộc. Đồng thời, Ngày KH&CN Việt Nam 18/5 cũng là dịp để tái khẳng định cam kết mạnh mẽ giữa Việt Nam và EU đối với tiến bộ KH,CN&ĐMST.

Thời gian qua, Bộ KH&CN đã thiết lập và duy trì mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với EU. Thứ trưởng Bùi Thế Duy đánh giá cao sự hỗ trợ tích cực từ EU thông qua các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, trao đổi chuyên gia và đối thoại chính sách. Hội thảo lần này, dưới sự hỗ trợ từ Chương trình TAIEX là minh chứng cụ thể cho nỗ lực chung nhằm thúc đẩy KH,CN&ĐMST như những động lực

Dự thảo luật sửa đổi phản ánh định hướng chuyển từ mô hình quản lý dựa trên đầu vào sang quản lý theo kết quả; khuyến khích quyền tự chủ nghiên cứu đi đôi với tăng cường trách nhiệm giải trình; cho phép các nhà khoa học sở hữu và thụ hưởng kết quả nghiên cứu; trao quyền lớn hơn cho doanh nghiệp đóng vai trò dẫn dắt trong nghiên cứu – phát triển thông qua các cơ chế ưu đãi và mô hình đầu tư đồng hành. Luật cũng ưu tiên làm chủ các công nghệ chiến lược, đề cao vai trò trung tâm của đại học trong nghiên cứu cơ bản, bảo đảm sự cân bằng giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, thúc đẩy xây dựng hệ sinh thái KH,CN&ĐMST toàn diện và tăng tốc chuyển đổi số trong quản trị ngành.

Thứ trưởng Bùi Thế Duy khẳng định, với 10 điểm mới trọng tâm, Luật KH,CN&ĐMST thể hiện rõ quyết tâm của Việt Nam trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, gắn kết nghiên cứu với thực tiễn và đưa KH&CN trở thành lực lượng nòng cốt thúc đẩy phát triển quốc gia.

“Chúng tôi tự hào khi Việt Nam hiện nằm trong nhóm 5 quốc gia dẫn đầu về năng lực khoa học trong khu vực Đông Nam Á – một thành tựu có được nhờ phần lớn vào quan hệ hợp tác mạnh mẽ, đặc biệt với EU”, Thứ trưởng chia sẻ thêm.

Đại sứ EU tại Việt Nam, ông Julien Guerrier cho biết, Hội thảo là thành quả trực tiếp của nỗ lực hợp tác giữa hai Bên, thể hiện cam kết chung trong việc thúc đẩy KH,CN&ĐMST như các động lực then chốt của phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng sống.

“EU rất vinh dự được đồng hành cùng khát vọng của Việt Nam trong việc xây dựng một khung pháp lý cởi mở, hướng đến tương lai cho những lĩnh vực trọng yếu này”, Đại sứ nhấn mạnh.

Ông Julien Guerrier, Đại sứ EU tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.

Tinh thần hợp tác này cũng là trọng tâm của Chiến lược Cửa ngõ Toàn cầu (Global Gateway) – sáng kiến của EU nhằm đầu tư vào các kết nối thông minh, xanh và an toàn trong các lĩnh vực số, năng lượng và giao thông; đồng thời tăng cường hệ thống y tế, giáo dục và nghiên cứu trên toàn thế giới. Thông qua chiến lược này, EU mong muốn thúc đẩy đầu tư bền vững, mở ra cơ hội cho cả khu vực công và tư, khuyến khích hợp tác doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ và đối tác đổi mới sáng tạo giữa EU và Việt Nam.

Phát biểu trực tuyến tại Hội thảo, Đại sứ Estonia tại Bắc Kinh, ông Hannes Hanso, chia sẻ về hành trình chuyển đổi số ấn tượng của đất nước mình. Với chỉ 1,3 triệu dân, Estonia đã trở thành quốc gia tiên phong toàn cầu về chính phủ điện tử và an ninh mạng, nhờ quyết định chiến lược đầu tư vào công nghệ thông tin từ hơn 20 năm trước.

Dù tài nguyên hạn chế và thị trường nhỏ, Estonia đã chọn phát triển giáo dục, công nghệ và hạ tầng số. Nhiều doanh nghiệp công nghệ nổi tiếng như Skype, Wise, Bolt ra đời từ đây. Đổi mới ở Estonia là sự kết hợp giữa công nghệ, niềm tin và khả năng thích ứng, với hệ sinh thái nghiên cứu – doanh nghiệp mạnh trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, y tế, robot và năng lượng xanh. Ông cũng cho biết Estonia và Việt Nam đang mở rộng hợp tác, đặc biệt trong giáo dục, chính phủ số và đô thị thông minh.

Ông Hannes Hanso – Đại sứ Estonia tại Bắc Kinh chia sẻ tại Hội thảo.

Cùng quan điểm, ông Keijo Norvanto – Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam cũng bày tỏ vui mừng khi các chuyên gia hàng đầu từ Estonia và Phần Lan đã cùng chia sẻ kinh nghiệm quý báu trong xây dựng chính sách về KH,CN&ĐMST. Ông kỳ vọng, thông qua Hội thảo, các bên sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác sâu rộng hơn nữa giữa chính phủ các nước trong lĩnh vực quan trọng này.

Ông Keijo Norvanto – Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe đại diện từ Phần Lan và Estonia – hai quốc gia sở hữu hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hàng đầu thế giới – chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng và thực thi chính sách KH,CN&ĐMST; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nghiên cứu – phát triển – thương mại hóa công nghệ và bảo hộ sở hữu trí tuệ; cũng như tăng cường kết nối giữa cơ quan quản lý, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong nước với các đối tác toàn cầu.

Các đại biểu chia sẻ, thảo luận tại Hội thảo.

Cùng với đó, những trao đổi cởi mở và mang tính xây dựng giữa Việt Nam và EU tại Hội thảo sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý, chính sách KH,CN&ĐMST, hướng tới một hệ thống linh hoạt, toàn diện và định hướng tương lai. Qua đó, tạo nền tảng cho các cải cách sâu rộng và mở ra nhiều cơ hội hợp tác đầu tư – kinh doanh mới giữa hai khu vực, trong bối cảnh Việt Nam và EU đang chuẩn bị nâng tầm quan hệ đối tác.

Thảo luận bàn tròn

Nguồn: PV

cốt lõi cho phát triển bền vững.

Sự kiện cũng diễn ra trong bối cảnh Bộ KH&CN đang sửa đổi Luật KH&CN năm 2013 – một bước đi có ý nghĩa chiến lược, đặc biệt sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57 (tháng 12/2024), xác định KH,CN&ĐMST và chuyển đổi số là những trụ cột quyết định của phát triển quốc gia. Lần đầu tiên, đổi mới sáng tạo được xác lập chính thức bên cạnh KH&CN như một lực lượng trung tâm trong chiến lược phát triển quốc gia.

 

Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chìa khóa trung tâm để thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển bền vững

Tại Phiên thảo luận “Công nghệ đột phá chuyển đổi xanh và phát triển bền vững trong kỷ nguyên thông minh” trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh diễn đàn đối tác vì tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) sáng 17/4/2025, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Bộ trưởng nhấn mạnh, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chìa khóa trung tâm để thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.

Muốn phát triển xanh và bền vững thì phải dựa vào KHCN, ĐMST và CĐS

Phát biểu tại Phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định vai trò quan trọng của phát triển xanh, coi đây là một bước tiến lớn của văn minh nhân loại. Bộ trưởng chỉ rõ, con người từ trước đến nay cơ bản là dựa trên tiêu thụ và làm cạn kiệt tài nguyên, tạo ra nhiều chất thải, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chính sự phát triển thiếu bền vững này đã động đến Mẹ Thiên nhiên, cần phải thay đổi để bảo vệ tài nguyên cho các thế hệ tương lai.

Bộ trưởng khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030, chuyển hướng từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang tăng trưởng xanh và kinh tế số.

Theo Bộ trưởng, muốn phát triển xanh và bền vững thì phải dựa vào KHCN, ĐMST và CĐS. Việt Nam đã đưa bộ 3 này về chung một Bộ quản lý nhà nước, đó là Bộ KH&CN. Bộ trưởng khẳng định, Việt Nam coi KHCN, ĐMST và CĐS là lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu.

Người đứng đầu ngành KH&CN Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh và phát triển bền vững. Đặc biệt là các công nghệ đột phá, như hydrogen, pin thế hệ mới, công nghệ carbon thấp, công nghệ tuần hoàn. Các công nghệ số thế hệ mới tạo động lực cho chuyển đổi xanh là AI, IoT, Big Data, Chip bán dẫn. Đó đều là các công nghệ được Chính phủ Việt Nam lựa chọn là các công nghệ chiến lược để ưu tiên phát triển.

Bộ trưởng cho biết, Việt Nam coi AI là công nghệ cốt lõi nhất của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. CĐS của Việt Nam đang được chuyển thành chuyển đổi AI. AI sẽ không thay thế con người, mà giúp gia tăng quyền năng cho con người, là trợ lý giúp việc cho con người, giúp con người thông minh hơn, hạnh phúc hơn, tối ưu hóa các quy trình, do đó tiết kiệm tài nguyên hơn.

Bộ trưởng cũng chỉ ra rằng chuyển đổi xanh và chuyển đổi số là hai yếu tố song song không thể thiếu trong quá trình phát triển bền vững.

Bộ trưởng đề xuất thành lập trang web để các quốc gia thuộc P4G, các tập đoàn, công ty có thể tiếp cận một cách thuận lợi và nhanh nhất thông tin về các công nghệ, kinh nghiệm trong chuyển đổi xanh. Đồng thời thành lập “Mô hình đổi mới sáng tạo mở” trong các nước thành viên P4G để hình thành cầu nối giữa các nhà cung cấp giải pháp, công nghệ và các tập đoàn, tổ chức có nhu cầu chuyển đổi xanh.

Hợp tác quốc tế – yếu tố then chốt thúc đẩy việc phổ biến các công nghệ tiên tiến, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.

Tại Phiên họp, ông Katsume Yasushi, Thứ trưởng Bộ Môi trường Nhật Bản đã giới thiệu ba công nghệ tiên tiến của Nhật Bản đóng góp vào quá trình chuyển đổi xanh và phát triển bền vững. Đó là công nghệ Johkasou, công nghệ xử lý chất thải thành năng lượng, giúp giảm ô nhiễm và phát thải khí nhà kính, đồng thời cải thiện vệ sinh và môi trường nước. Nhật Bản đã áp dụng công nghệ này tại Việt Nam, trong đó có cơ sở xử lý rác thải thành năng lượng tại Bắc Ninh và Vịnh Hạ Long.

Công nghệ thứ hai là công nghệ hỗ trợ nền kinh tế tuần hoàn, với các công nghệ tiên tiến như tái chế tấm pin mặt trời, tái chế từ rác thải điện tử. Công nghệ thứ ba là giám sát môi trường bằng AI nhằm giải quyết những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, giảm đa dạng sinh học…

Hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ P4G, là yếu tố then chốt để thúc đẩy việc phổ biến các công nghệ này và đạt được mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu, ông Katsume Yasushi nhấn mạnh

Tại Phiên họp, đại diện Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đã làm rõ những đóng góp quan trọng của tổ chức này vào quá trình chuyển đổi xanh toàn cầu. Chuyển đổi xanh đóng vai trò quan trọng trong xây dựng các xã hội có khả năng phục hồi và thịnh vượng, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của công nghệ tiên tiến như AI trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững.

UNIDO cam kết hỗ trợ các quốc gia thành viên khai thác các công nghệ kỹ thuật số đột phá để đạt được các mục tiêu như năng lượng sạch và hành động vì khí hậu; chuỗi cung ứng công bằng và bền vững; an ninh lương thực thông qua đổi mới và gia tăng giá trị tại địa phương.

Bà Fatou Haidara, Phó Tổng Giám đốc Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO) cũng giới thiệu về sáng kiến thành lập Liên minh toàn cầu về AI cho ngành công nghiệp và sản xuất (AIM Global) nhằm mở rộng quan hệ đối tác quốc tế về AI, tối đa hóa tác động chung của các chính phủ, khu vực tư nhân, học viện và tổ chức dân sự. Mục tiêu của liên minh là đảm bảo tiếp cận công bằng với các lợi ích của AI, qua đó thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững.

Nhấn mạnh về vai trò của các công nghệ tiên tiến trong thúc đẩy phát triển bền vững, đại diện đến từ Viện Tăng trưởng Xanh toàn cầu (GGGI) nhận định, AI đang đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. AI giúp tối ưu hóa các quy trình trong nhiều lĩnh vực như năng lượng, giao thông, công nghiệp và nông nghiệp, từ đó hỗ trợ các quốc gia giảm phát thải và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn.

Đại diện GGGI cũng nhấn mạnh sự quan trọng của quan hệ đối tác công tư (PPP) trong việc triển khai các giải pháp AI. Chính phủ cần thiết lập các khuôn khổ pháp lý ổn định và hợp tác quốc tế để thu hút đầu tư vào công nghệ xanh. Việt Nam, với nền kinh tế số đang phát triển và nguồn nhân lực CNTT mạnh mẽ, đang có cơ hội lớn để tận dụng AI trong việc xây dựng một nền kinh tế xanh và bền vững.

Kết luận Phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá cao các bài tham luận, các chia sẻ, các câu chuyện của đại diện đến từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia và các doanh nghiệp liên quan đến việc ứng dụng các công nghệ đột phá hướng tới sự phát triển bền vững trong kỷ nguyên thông minh.

Bộ trưởng cho biết, Việt Nam xác định KH,CN,ĐMST&CĐS (S.T.I.D) là chìa khóa trung tâm trong quá trình chuyển đổi xanh, người dân phải là người trực tiếp thụ hưởng thành quả này.

Bộ KH&CN Việt Nam được gọi là Bộ về S.T.I.D (Science. Technology. Innovation. Digital Development). Lần đầu tiên ở Việt Nam, S.T.I.D đi cùng với nhau trong một hệ sinh thái, trong một bộ quản lý nhà nước. Lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt S.T.I.D trong cùng một Chiến lược phát triển.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác toàn cầu, đặc biệt là hợp tác giữa Nhà nước – Viện trường – doanh nghiệp trong hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững./.

Chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, toàn trình để tăng tốc, bứt phá phát triển kinh tế số

Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 56/TB-VPCP ngày 23/02/2025 kết luận Phiên họp tổng kết hoạt động Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Đề án 06 năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2025.

Trong năm 2024, công tác chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06 đã đạt được một số kết quả tích cực như: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện được triển khai quyết liệt, đồng bộ với quyết tâm cao từ trung ương đến cơ sở; tích cực hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách tạo khuôn khổ pháp lý và điều kiện thuận lợi cho chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06; kinh tế số, xã hội số tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực; hạ tầng số và các nền tảng số được quan tâm đầu tư; cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành được đẩy mạnh triển khai; kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu có bước phát triển tốt; cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện; Việt Nam có bước tiến mạnh mẽ trong xếp hạng về chuyển đổi số quốc tế.

Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, vẫn còn những hạn chế như: Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách còn nhiều bất cập; nhiều nhiệm vụ theo Kế hoạch của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Đề án 06 chưa hoàn thành; kinh tế số, hạ tầng số phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng kinh tế; công tác an ninh mạng, an toàn thông tin nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính còn chậm; chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến chưa cao; nhân lực cho chuyển đổi số, Đề án 06 còn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, phân bổ chưa đồng đều.

Tinh thần triển khai gắn với 5 “tăng tốc, bứt phá”

Thông báo kết luận nêu rõ quan điểm chỉ đạo là bám Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm tại Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW.

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một yêu cầu khách quan, là lựa chọn chiến lược, là ưu tiên hàng đầu để phát triển kinh tế nhanh, bền vững trong kỷ nguyên vươn mình, đất nước giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng và nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Tinh thần triển khai gắn với 5 “tăng tốc, bứt phá”:

a) Thứ nhất là tăng tốc, bứt phá trong chuyển đổi số, đưa công nghệ số lan tỏa đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 và ở mức hai con số trong những năm tiếp theo.

b) Thứ hai là tăng tốc, bứt phá trong số hóa các ngành kinh tế, tạo ra bước nhảy vọt về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.

c) Thứ ba là tăng tốc, bứt phá trong phát triển hạ tầng số, xây dựng nền tảng vững chắc cho nền kinh tế số, phải ưu tiên và xác định có trọng tâm, trọng điểm.

d) Thứ tư là tăng tốc, bứt phá trong phát triển nhân lực số, trang bị kiến thức, kỹ năng cho thế hệ tương lai, sẵn sàng nắm bắt các cơ hội trong kỷ nguyên số.

đ) Thứ năm là tăng tốc, bứt phá trong phát triển Chính phủ số, xã hội số, công dân số, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Lãnh đạo từ trên xuống, nhưng tổ chức thực hiện, tháo gỡ vướng mắc phải từ dưới lên

Chủ đề chuyển đổi số năm 2025 là: ” Chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, toàn trình để tăng tốc, bứt phá phát triển kinh tế số “, trong đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nêu gương đi đầu, tiên phong trong nhận thức, đổi mới tư duy, phương pháp luận về chuyển đổi số; chỉ đạo quyết liệt những nhiệm vụ chậm tiến độ, tháo gỡ những khó khăn, điểm nghẽn theo nguyên tắc “lãnh đạo từ trên xuống, nhưng tổ chức thực hiện, tháo gỡ vướng mắc phải từ dưới lên”. Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về chuyển đổi số và Đề án 06 bằng nhiều hình thức.

Đồng thời, khẩn trương ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị trong tháng 02 năm 2025, đảm bảo “rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ kết quả, rõ trách nhiệm” để đánh giá, đo lường, kiểm tra, giám sát; Hoàn thành xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, nhất là cơ sở dữ liệu về đất đai; nghiên cứu, xây dựng đề án ứng dụng internet vạn vật (IoT) trong một số ngành, lĩnh vực, như: sản xuất, thương mại, năng lượng, nông nghiệp thông minh, giao thông thông minh, y tế thông minh; rà soát, đánh giá, nghiên cứu phương án triển khai trung tâm giám sát, điều hành thông minh dựa trên dữ liệu, kết nối với Trung tâm điều hành của Chính phủ bảo đảm thiết thực, hiệu quả, theo đúng quy định của pháp luật.

Chuyển trạng thái cung cấp dịch vụ công từ “xin – cho” sang trạng thái “chủ động – phục vụ”; đẩy mạnh xóa bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến toàn trình hướng tới dịch vụ số cá nhân hóa, không phụ thuộc địa giới hành chính. Phấn đấu đến hết năm 2025, 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến toàn trình, 80% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến, 40% dân số trưởng thành sử dụng dịch vụ công trực tuyến.

Đến ngày 30/6, tất cả lãnh đạo, cán bộ, công chức phải xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng

Hết tháng 6 năm 2025, 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được gắn định danh cá nhân.

Đến ngày 30 tháng 6 năm 2025, tất cả lãnh đạo, cán bộ, công chức các bộ, ngành, địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) phải xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng và sử dụng chữ ký số để giải quyết công việc.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo và tổ chức thực hiện phân cấp, ủy quyền trong giải quyết thủ tục hành chính, áp dụng chính sách thu phí không đồng để thu hút người dân thực hiện dịch vụ công trực tuyến như mô hình thành phố Hà Nội đã triển khai; phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Công an số hóa dữ liệu hộ tịch và đồng bộ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để làm sạch, phục vụ cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hoàn thành trước ngày 31 tháng 3 năm 2025; phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường số hóa dữ liệu đất đai trên địa bàn, hoàn thành trước ngày 30 tháng 6 năm 2025.

Phát động phong trào thi đua toàn quốc về phát triển khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Bộ Nội vụ nghiên cứu, tham mưu phát động phong trào thi đua toàn quốc về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo khí thế, hiệu ứng lan tỏa đến từng người dân, doanh nghiệp; đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ công vụ.

Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện Luật Công nghiệp công nghệ số để trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9 vào tháng 5 năm 2025; kịp thời trình Chính phủ ban hành các nghị định hướng dẫn sau khi luật được ban hành. Hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử năm 2023 về cơ sở dữ liệu dùng chung.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân để trình Quốc hội cho ý kiến, thông qua tại Kỳ họp thứ 9 vào tháng 5 năm 2025; kịp thời trình Chính phủ ban hành các nghị định hướng dẫn sau luật được ban hành để triển khai thực hiện. Sớm hoàn thiện dự thảo, trình Chính phủ ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Dữ liệu.

Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ tổng hợp, đề xuất cấp có thẩm quyền khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác triển khai chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06 năm 2024 tại phiên họp tháng 3 năm 2025, đồng thời tổ chức khen thưởng theo thẩm quyền được giao và quy định của pháp luật.

Năm 2025: Chuyển đổi số toàn diện để phát triển kinh tế số, tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế

Chiều 6/2, tại Trụ sở Chính phủ diễn ra Phiên họp tổng kết hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Đề án 06. Hội nghị đánh giá kết quả năm 2024 và đề ra phương hướng năm 2025. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh Thủ tướng Phạm Minh Chính đã xác định chủ đề chuyển đổi số năm 2025 là “Chuyển đổi số toàn diện để phát triển kinh tế số, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế.” Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số sẽ triển khai định hướng này trong kế hoạch hành động năm 2025 với phương pháp tiếp cận mới, nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trên diện rộng, góp phần phát triển kinh tế số và nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành

Cổng TTĐT Bộ TT&TT trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tại sự kiện.

Cách đây 5 năm, ứng dụng công nghệ thông tin là phổ biến, chuyển đổi số là rất mới. Chuyển đổi số là mới mẻ không chỉ với Việt Nam mà với cả thế giới. Cái mới thì tinh thần dám khai phá là quan trọng nhất. Ai dám khai phá người đó sẽ dẫn đầu. Chính phủ ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia năm 2020 là một quyết sách mạnh mẽ và tiên phong. 5 năm qua là chặng đường vừa làm vừa khai phá. Và chính tinh thần dám khai phá ấy đã đưa Việt Nam vào nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng về kinh tế số, thương mại điện tử, chính phủ số, dịch vụ công trực tuyến và chuyển đổi số nói chung vào loại nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới.

Việt Nam đặt mục tiêu năm 2030 trở thành nước có thu nhập trung bình cao, khi đó, xếp hạng về thu nhập đầu người của Việt Nam sẽ vào nhóm top 100 toàn cầu. Nhưng hạ tầng số, công nghệ số, công nghiệp số và chuyển đổi số phải đi trước, đi nhanh hơn, xếp hạng quốc tế năm 2030 phải thuộc nhóm top 50 toàn cầu, cao gấp đôi xếp hạng kinh tế.

Về viễn thông, chúng ta đang xếp hạng thứ 72, nhưng tăng bậc khá nhanh. Cách đây 6 năm, năm 2018, Việt Nam xếp hạng 108. 6 năm qua tăng 36 bậc, mỗi năm tăng trung bình 6 bậc. Với tốc độ tăng bậc này, đến năm 2030, viễn thông Việt Nam chắc chắn sẽ vào nhóm top 50 toàn cầu, nếu tích cực hơn nữa thì sẽ vào nhóm top 40.

Về hạ tầng dữ liệu, Việt Nam đang là top 60 toàn cầu. Nếu thu hút được các Big Tech đầu tư vào trung tâm dữ liệu và các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào trung tâm dữ liệu thì đến năm 2030, Việt Nam có thể vào nhóm top 30 toàn cầu.

Về an ninh, an toàn mạng, Việt Nam đang có thứ hạng cao, xếp thứ 17 toàn cầu. Mục tiêu của chúng ta là vào nhóm top 10 toàn cầu.

Về công nghiệp công nghệ số, chúng ta đang có tổng doanh thu trên 150 tỷ $, tăng trưởng trung bình hàng năm 15%. Xét về tổng thể, ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam đã vào top 20. Chúng ta sẽ tiếp tục duy trì thứ hạng cao, phấn đấu vào nhóm top 15 toàn cầu và tăng tỷ trọng giá trị Việt Nam trong công nghiệp công nghệ số đang là 32% lên 50% vào năm 2030.

Về kinh tế số (KTS), Việt Nam xếp thứ 41 về tỷ trọng KTS/GDP, và cũng đang tăng thứ hạng khá nhanh. Năm 2024, KTS của Việt Nam tăng trên 20% và đạt tỷ trọng trong GDP là trên 18%, năm 2025 sẽ đạt và vượt mục tiêu 20%. Chúng ta đặt mục tiêu KTS chiếm 30-35% GDP vào năm 2030, khi đó, Việt Nam sẽ lọt vào nhóm top 30 toàn cầu.

Về chính phủ điện tử (CPĐT)/chính phủ số (CPS), năm 2024, Việt Nam chúng ta xếp thứ 71, tăng 15 hạng sau 2 năm. Chúng ta đang có sự thay đổi nhanh về thứ hạng. Chính phủ đặt mục tiêu 80% hồ sơ dịch vụ công được xử lý trực tuyến toàn trình trong năm 2025. Chỉ cần đến năm 2028 là Việt Nam có thể vào nhóm top 50 toàn cầu về CPĐT/CPS. Và chúng ta đặt mục tiêu năm 2030 sẽ vào nhóm top 40 toàn cầu về CPĐT/CPS.

Như vậy, vào năm 2030, hạ tầng số, công nghệ số, công nghiệp số và chuyển đổi số của Việt Nam phải lọt vào nhóm top 50 toàn cầu, một số lĩnh vực vào top 10-20-30. Đây là mục tiêu rất cao, nhằm đi trước, đi nhanh, lọt vào nhóm các nước phát triển, để tạo tiền đề, nền tảng cho phát triển đất nước, cho chuyển đổi số, cho phát triển KTS.

Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị vừa ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, đúng vào dịp 80 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngày 22-12-2024, đây là một nghị quyết chuyên đề đặc biệt quan trọng về đột phá phát triển khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia, với nhiều quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp lớn có tính cách mạng, giống như Nghị quyết Khoán 10 cho nông nghiệp cách đây 40 năm, nhưng lần này là cho KHCN, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia. Từ chỗ thiếu KHCN, ĐMST và chuyển đổi số, chúng ta sẽ tiến tới đủ, thừa, xuất khẩu và xuất khẩu lớn về KHCN, ĐMST và chuyển đổi số, giống như chúng ta đã làm được đối với nông nghiệp.

Nghị quyết Khoán 10 là để thoát nghèo, Nghị quyết 57 là để thoát bẫy thu nhập trung bình. Nghị quyết Khoán 10 là giải phóng sức lao động, Nghị quyết 57 là giải phóng sự sáng tạo. Tinh thần chung của cả Nghị quyết Khoán 10 và Nghị quyết 57 là quản lý theo mục tiêu, không quản cách làm, là trao quyền tự chủ và trách nhiệm cho người làm, chấp nhận rủi ro và đánh giá người làm dựa trên hiệu quả tổng thể, là người làm được hưởng lợi từ thành quả lao động và sáng tạo.

Nghị quyết 57 xác định, bộ 3 KHCN, ĐMST và chuyển đổi số là 3 trụ cột chính để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Trong đó, KHCN là nền tảng, nó tạo ra tri thức mới và công nghệ mới. ĐMST là động lực, nó chuyển hoá các tri thức mới, công nghệ mới thành ý tưởng mới, giải pháp mới. ĐMST để biến các kết quả nghiên cứu thành sản phẩm mới, dịch vụ mới, quy trình mới, tạo ra các giá trị thực tiễn để phát triển KT-XH.

Chuyển đổi số là chuyển mọi hoạt động lên môi trường số, là số hoá thế giới thực tạo thành một không gian mới – không gian số, cung cấp nền tảng kỹ thuật số, công cụ số, dữ liệu số và khả năng kết nối số để tăng tốc và mở rộng quy mô ứng dụng KHCN và ĐMST. Chuyển đổi số tạo ra không gian số – đất dụng võ mới, môi trường lý tưởng cho KHCN và ĐMST, thuận lợi đến mức các cá nhân cũng có thể ứng dụng KHCN để tham gia ĐMST. Như chúng ta thấy, công nghệ hiện nay chủ yếu là công nghệ số, hoặc dựa trên công nghệ số, ĐMST hiện nay thì cũng chủ yếu là ĐMST số. Chuyển đổi số tạo ra môi trường và công cụ để hiện thực hoá nhanh chóng các ý tưởng, giải pháp ĐMST.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đặt chủ đề chuyển đổi số cho năm 2025: Chuyển đổi số toàn diện để phát triển kinh tế số, tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chuyển đổi số, KTS có thể đóng góp tới 3% vào tăng trưởng GDP hàng năm của các nước đang phát triển. Tăng trưởng kinh tế dựa trên các yếu tố truyền thống đã dần tới hạn, bởi vậy, phải tìm các động lực mới, đó là chuyển đổi số và KTS. Đẩy nhanh chuyển đổi số lúc này có ý nghĩa quyết định cho tăng trưởng cao về kinh tế, đặc biệt là đối với phần tăng thêm trên 7%. Tăng 7% là bằng các động lực cũ, tăng trên 7% phải dựa trên các động lực mới, nhất là KHCN, ĐMST, chuyển đổi số và KTS.

Chúng ta sẽ triển khai định hướng này trong kế hoạch hành động năm 2025 của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số, với cách làm mới. Thứ nhất, đặt mục tiêu cao để tìm giải pháp, cách làm đột phá, để tìm ra người tài, để tạo ra sự phát triển bứt phá. Thứ hai, các nhiệm vụ phải được lượng hoá thành mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Ba là giao nhiệm vụ cho người đứng đầu phụ trách trực tiếp. Thứ tư, nhiệm vụ sẽ đi kèm phân bổ nguồn lực phù hợp để triển khai. Thứ năm, xây dựng công cụ đo lường trực tuyến kết quả thực hiện theo quí, năm, định kỳ đánh giá và công bố công khai. Thứ sáu, kết quả thực hiện là cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt là với người đứng đầu.

Về một số nhiệm vụ quan trọng ngay trong đầu năm 2025:

  • 1- Các bộ, ngành và địa phương khẩn trương xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW;
  • 2- Thuê trung tâm điện toán đám mây dùng riêng cho chính phủ để hỗ trợ nhanh các dự án chuyển đổi số khi Trung tâm dữ liệu quốc gia chưa xong, xây dựng trung tâm tính toán AI hiệu năng cao dùng chung để hỗ trợ phát triển công nghệ và các ứng dụng AI;
  • 3- Tất cả các bộ, ngành, địa phương hoàn thành trung tâm điều hành thông minh để chỉ đạo, điều hành trực tuyến và dựa trên dữ liệu, và kết nối với Trung tâm điều hành của Chính phủ;
  • 4- Các bộ, ngành và địa phương xây dựng các CSDL chuyên ngành đã công bố, đặc biệt là CDSL đất đai;
  • 5- Các nhà mạng phủ sóng 5G toàn quốc, nâng gấp ba tốc độ di động.

Nguyễn Mạnh Hùng
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số

Hội nghị Thượng đỉnh P4G 2025: Tăng trưởng xanh bền vững và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam

Chiều ngày 16/4/2025, Hội nghị Thượng đỉnh Đối tác vì Tăng trưởng xanh và Mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) lần thứ tư chính thức khai mạc tại Hà Nội, với sự tham gia của hơn 1.000 đại biểu đến từ hơn 40 quốc gia và các tổ chức quốc tế. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đăng cai một sự kiện cấp cao đa phương về tăng trưởng xanh, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong cam kết về phát triển bền vững.
Lễ khai mạc Hội nghị P4G 2025 có sự tham dự của Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng; Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone, Thủ tướng Ethiopia Abiy Ahmed Ali và Phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Amina J. Mohammed… cùng đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp.

Phát biểu khai mạc Hội nghị P4G 2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định tầm quan trọng của Hội nghị trong việc thúc đẩy hợp tác công-tư, giúp kết nối các Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức xã hội để cùng đưa ra các giải pháp và chính sách đột phá nhằm đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc đến năm 2030.

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, trong bối cảnh đối diện với những thách thức lớn về biến đổi khí hậu, thiên tai, ô nhiễm môi trường và sự cạn kiệt tài nguyên, chuyển đổi xanh là một xu thế tất yếu và là chiến lược của tất cả các quốc gia trên thế giới.

Chủ đề của Hội nghị P4G lần này là “Chuyển đổi xanh bền vững, lấy con người làm trung tâm” phản ánh khát vọng chung của tất cả các quốc gia và dân tộc hướng đến một thế giới tươi đẹp hơn, nơi con người là mục tiêu, động lực và là nguồn lực cho sự phát triển bền vững. Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, trong quá trình chuyển đổi xanh, các quốc gia cần phải đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương.

Thủ tướng khẳng định, một nền kinh tế xanh không thể thiếu các doanh nghiệp xanh; một xã hội xanh cần có công dân xanh và một thế giới xanh cần các quốc gia xanh. Việc tham gia và đóng góp vào quá trình chuyển đổi xanh không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi của tất cả các quốc gia. Thủ tướng chỉ rõ, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy chuyển đổi xanh, và thị trường đóng vai trò dẫn dắt trong sự thay đổi này.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chia sẻ, Việt Nam xác định chuyển đổi xanh là yêu cầu tất yếu và là động lực quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Với sự tiến bộ trong phát triển năng lượng tái tạo và nông nghiệp xanh, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực bước đầu và cam kết sẽ tiếp tục triển khai các chính sách xanh để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Thủ tướng cho biết, tại Hội nghị, Việt Nam đã đưa ra ba đề xuất quan trọng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh toàn cầu. Đó là:

Thứ nhất, cần hoàn thiện tư duy xanh, đặc biệt là phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số gắn với tăng trưởng xanh.

Thứ hai, xây dựng một cộng đồng xanh trách nhiệm, với sự phối hợp giữa chính phủ, khu vực tư nhân và cộng đồng khoa học.

Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và phát triển các mô hình hợp tác xanh như hợp tác công-tư (PPP), hợp tác Nam-Nam và Bắc-Nam.

Việt Nam hoan nghênh các sáng kiến quốc tế như P4G vì đã tạo ra những mô hình hợp tác thực tế, hiệu quả, mang lại động lực mạnh mẽ cho chuyển đổi xanh. Việt Nam cam kết sẽ tiếp tục đóng góp vào quá trình này, tạo nền tảng cho các sáng kiến, công nghệ đột phá được triển khai trên toàn cầu.

Phát biểu tại Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chia sẻ những thông điệp chính sách quan trọng của Việt Nam về phát triển bền vững và chuyển đổi xanh.

Tổng Bí thư cho biết, Việt Nam đang nỗ lực không ngừng để vươn tới một kỷ nguyên phát triển thịnh vượng và bền vững, góp phần xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.

Việt Nam đang tập trung vào các giải pháp chiến lược để thúc đẩy phát triển, bao gồm cải cách thể chế, mở cửa nền kinh tế và khơi thông các nguồn lực để phát triển. Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh vai trò then chốt của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và các mô hình phát triển bền vững.

Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời và sẽ tiếp tục thúc đẩy mô hình nông nghiệp xanh. Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh các sáng kiến quốc tế về tăng trưởng xanh và chuyển đổi năng lượng, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn lực từ bên ngoài để đạt được các mục tiêu về phát triển bền vững.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết và sáng tạo để xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển bền vững và bao trùm. Việt Nam cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh các cam kết quốc tế về chuyển đổi năng lượng và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Việt Nam mong muốn hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để phát triển các sáng kiến mới, tạo ra động lực cho sự chuyển đổi xanh toàn cầu. Tất cả những nỗ lực này đều vì mục tiêu bảo vệ và gìn giữ Trái đất, ngôi nhà chung của toàn nhân loại.

Hội nghị P4G 2025 là một bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh toàn cầu, nơi các quốc gia cùng nhau hợp tác để giải quyết những thách thức lớn của thế kỷ 21. Với cam những kết mạnh mẽ và hành động cụ thể, Việt Nam đang chứng tỏ vai trò lãnh đạo trong chuyển đổi xanh, không chỉ đối với khu vực ASEAN, mà còn đối với thế giới. Hội nghị này sẽ tiếp tục là một động lực lớn, thúc đẩy hợp tác quốc tế và triển khai các giải pháp đột phá để đảm bảo một tương lai xanh, bền vững cho thế hệ mai sau.

Sau khi Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc, Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu thông điệp chính sách, Hội nghị đã nghe các phát biểu của Thủ tướng Ethiopia, Thủ tướng Lào, Phó Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc và Chủ tịch Viện Tài nguyên thế giới Ani Dasgupta./.

Đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến chỉ số phát triển con người

Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, con người ngày càng được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chiến lược và chính sách phát triển. Vậy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) có vai trò gì trong việc nâng cao chất lượng con người? Làm sao để định hướng nghiên cứu KH,CN&ĐMST nhằm phát huy hiệu quả nhân tố con người?
Đó là những vấn đề trọng tâm được đặt ra tại Hội thảo khoa học “Đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến chỉ số phát triển con người (HDI)”, do Vụ Khoa học Xã hội Nhân văn và Tự nhiên, Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước cùng Ban chủ nhiệm Chương trình KX.03/21-25 và KX.05/21-25 phối hợp tổ chức sáng 17/4/2025 tại Hà Nội.
KH,CN&ĐMST – Động lực then chốt phát triển bền vững
Chỉ số phát triển con người (HDI) được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) công bố từ năm 1990 phản ánh ba khía cạnh cơ bản của phát triển: Tuổi thọ, trình độ học vấn và thu nhập bình quân đầu người. Đây là chỉ số quan trọng để đánh giá sự tiến bộ về kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục.
Hội thảo nhằm cụ thể hóa mục tiêu KH,CN&ĐMST phải góp phần quan trọng xây dựng và phát triển giá trị văn hóa, xã hội và con người Việt Nam, hướng đến duy trì chỉ số HDI trên 0,7 đã nêu trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về phát triển KH,CN,ĐMST và chuyển đổi số (CĐS).
Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung làm rõ vai trò của KH,CN&ĐMST trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển bền vững và cải thiện HDI, từ đó đưa ra các đề xuất, định hướng nghiên cứu cụ thể, thiết thực. Đồng thời, thảo luận làm rõ những vấn đề lý luận để thống nhất nhận thức về những đóng góp quan trọng của KH,CN&ĐMST trong việc xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam.
Ba nội dung chính được thảo luận tại Hội thảo gồm: Đóng góp của KH,CN&ĐMST vào chỉ số HDI duy trì trên 0,7; định hướng nghiên cứu và giải pháp tổ chức hoạt động khoa học xã hội và nhân văn đến năm 2030 gắn với xây dựng và phát triển giá trị văn hóa, xã hội và con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người duy trì trên 0,7; kinh nghiệm quốc tế về phát huy vai trò của KH,CN&ĐMST trong nâng cao HDI.
Theo GS.TS. Phạm Văn Đức, Phó Chủ nhiệm Chương trình KX.05/21-25, KH,CN&ĐMST đóng vai trò trung tâm trong việc cải thiện chất lượng sống và thúc đẩy phát triển bền vững, giúp giải quyết những vấn đề thiết yếu như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và môi trường.
Các tiến bộ về y học (như công nghệ gene, y học chính xác…) không chỉ kéo dài tuổi thọ mà còn nâng cao chất lượng sống. Trong khi đó, công nghệ thông tin và truyền thông đã mở ra cơ hội học tập rộng lớn, cải thiện khả năng tiếp cận tri thức.
Bên cạnh đó, KH&CN cũng góp phần thúc đẩy năng suất lao động, phát triển công nghiệp và gia tăng thu nhập, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 với các công nghệ như tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật.
Cùng với KH&CN, ĐMST không chỉ là yếu tố quyết định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các quốc gia, mà còn là yếu tố quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. ĐMST tạo ra các giải pháp mới cho những thách thức hiện tại, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Các doanh nghiệp ĐMST có vai trò quan trọng trong việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, cải thiện điều kiện sống, nâng cao năng suất lao động và từ đó tăng trưởng thu nhập cho xã hội.
Nêu quan điểm về vai trò của KH,CN&ĐMST đối với phát triển con người trong kỷ nguyên mới, GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chủ nhiệm Chương trình KX.03/21-25 khẳng định, con người là giá trị cốt lõi trung tâm, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển đất nước. KH,CN,ĐMST và CĐS vì con người và tác động mạnh mẽ đến kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Phát triển con người và HDI Việt Nam trong bối cảnh hiên nay
Theo GS.TS. Phạm Văn Đức, trong các chỉ số kinh tế truyền thống như GDP có thể phản ánh một phần sự phát triển, HDI mang đến cái nhìn toàn diện hơn, bao gồm cả yếu tố chất lượng sống và cơ hội phát triển của người dân. Vì vậy, nâng cao HDI không chỉ là một mục tiêu kinh tế, mà còn là một mục tiêu xã hội, góp phần hướng đến một xã hội phát triển bền vững. Để cải thiện HDI, KH,CN&ĐMST có vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để phát huy vai trò của KH,CN&ĐMST trong kỷ nguyên mới, GS.TS. Võ Khánh Vinh kiến nghị, cần hình thành, xây dựng tư duy mới về con người, phát triển con người theo hướng tiếp cận vượt trội, đột phá, tiên phong. Cần có cách tiếp cận đa ngành, đa phương diện, liên ngành, tích hợp để phát triển tổng thể, toàn diện con người Việt Nam. Phát triển toàn diện, bao trùm con người, quyền con người, nâng cao thể lực, trí tuệ, năng lực, kỹ năng con người Việt Nam để phát huy vai trò con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể, nguồn lực và động lực trong phát triển đất nước. Xây dựng một chương trình nghiên cứu mới về con người và phát triển con người Việt Nam trong Kỷ nguyên phát triển mới của đất nước…
PGS.TSKH. Lương Đình Hải, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, HDI là một trong những biểu hiện cụ thể của việc định lượng sự phát triển con người ở góc độ cụ thể. HDI là thước đo định lượng về phát triển con người rất quan trọng hiện nay, đang được sử dụng ngày càng phổ biến trên thế giới. KH,CN và cách mạng khoa học công nghệ (CMKHCN) đang tác động đến điều kiện tồn tại và phát triển của con người thông qua công nghệ và sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng. Đồng thời, KH,CN và CMKHCN đến các quan hệ xã hội, thể lực, trí lực, tâm lực, kỹ lực, an ninh của con người.
Để KH,CN và CMKHCN góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phát triển con người Việt Nam, Theo TS. Vũ Thị Thanh, Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới nêu ý kiến, cần chú trọng cả việc tăng và duy trì HDI trên 0,7 cả việc nâng cao chất lượng phát triển con người, cải cách thể chế KH&CN và tháo gỡ các rào cản cho KH&CN phát triển, tháo gỡ các điểm nghẽn để thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN…
Hội thảo đã ghi nhận 11 báo cáo tham luận và nhiều ý kiến sâu sắc về vai trò và đóng góp của KH,CN&ĐMST đối với phát triển chỉ số HDI và đã đưa ra đề xuất, kiến nghị:
(1) Nghiên cứu phát triển chỉ số về phát triển con người chỉ là một phần của phát triển con người; (2) Xây dựng một chương trình nghiên cứu khoa học riêng về con người, trong đó làm thế nào để nâng cao chỉ số phát triển con người Việt Nam, trong đó có chỉ số HDI; (3) Cần sớm lựa chọn một cơ quan hoặc một tổ chức khoa học thực hiện chức năng nghiên cứu chuyên về con người và theo dõi bộ chỉ số chỉ số phát triển con người để nâng cao chỉ số phát triển người của Việt Nam; (4) Đề nghị Bộ KH&CN thống nhất đưa một trong các chỉ tiêu nghiên cứu “có nội dung nghiên cứu tác động nâng cao chỉ số phát triển người” trong các đề tài thuộc chương trình khoa học xã hội và nhân văn cấp quốc gia; (5) tăng cường tổ chức hội thảo, tọa đàm liên ngành, liên chương trình nhằm cập nhật thực tiễn, chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả nghiên cứu.

Nguồn: Trung tâm Truyền thông KH&CN

Có cơ chế chấp nhận rủi ro, nhà khoa học sẵn sàng dấn thân

GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng nhà khoa học sẽ vượt qua các e ngại, sẵn sàng thực hiện những nghiên cứu chưa từng có khi có cơ chế chấp nhận rủi ro.
Một ngày sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, các nhà khoa học bày tỏ sự tin tưởng, tiếp thêm niềm tin, theo đuổi đam mê nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.
GS. Lan chia sẻ, các nhà khoa học từng e ngại khi dấn thân vào những nghiên cứu mới tạo nền tảng cho sự sáng tạo và phát triển bởi vấn đề rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Bà cho biết, khi dịch tả lợn châu Phi xuất hiện, các nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, do đây là bệnh chưa từng có. Trong quá trình nghiên cứu bệnh này, có khi thu được kết quả, nhưng cũng có lúc không đạt được kỳ vọng ban đầu. Nếu thất bại, họ không được thanh toán các chi phí đã sử dụng cho hóa chất, vật nghiên cứu và đối mặt với áp lực hoàn trả chi phí.
“Điều này không chỉ gây bất lợi mà còn khiến nhà khoa học e ngại khi theo đuổi các vấn đề mới và khó, ảnh hưởng đến động lực nghiên cứu của họ”, GS Lan nói với VnExpress
Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học Việt Nam còn mắc kẹt trong các thủ tục hành chính khi triển khai nghiên cứu, làm giảm động lực sáng tạo. Việc mua hóa chất, vật liệu phục vụ thí nghiệm vẫn bị ràng buộc bởi quy trình đấu thầu, ngay cả khi các sản phẩm này không thể mua theo quy trình thông thường. Có thể kể đến việc thuê động vật, đất trồng, ao nuôi hay mua phụ phẩm nông nghiệp để triển khai các hoạt động thí nghiệm, thử nghiệm. Những dịch vụ này không thể đăng ký đấu thầu trên hệ thống quốc gia.
Ngoài ra việc khoán chi đến sản phẩm cuối cùng khó thực hiện nhưng hồ sơ triển khai nhiệm vụ vẫn phải đấu thầu, thanh toán như khoán từng phần. Điều này cũng làm cho các nhà khoa học có tâm lý ngại nghiên cứu.
Theo bà Lan để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính tiên phong, cần có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các nhà khoa học cần được tạo điều kiện để chấp nhận rủi ro mà không phải lo lắng về hậu quả tài chính. Điều này không chỉ giúp họ tự tin hơn trong việc theo đuổi các ý tưởng mới mà còn góp phần tạo nên những đột phá khoa học, mang lại lợi ích cho toàn xã hội.
Nghị quyết được Quốc hội thông qua sẽ giúp tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước nếu đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định. Đồng thời, nếu nghiên cứu không đạt được kết quả như dự kiến nhưng đã thực hiện đúng quy trình, tổ chức chủ trì không phải hoàn trả kinh phí.
Nghị quyết cũng xác định ngân sách nhà nước khoán chi cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trừ các khoản mua sắm tài sản, thuê dịch vụ bên ngoài và công tác nước ngoài. Khoán chi đến sản phẩm cuối cùng được áp dụng khi tổ chức chủ trì cam kết chỉ tiêu chất lượng chủ yếu cần đạt được.
Bên cạnh đó Nghị quyết cũng trao quyền tự chủ cho các tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ được tự chủ, tự chịu trách nhiệm quyết định việc sử dụng kinh phí khoán; được điều chỉnh các nội dung chi; được quyết định việc sử dụng kinh phí từ công lao động để thuê chuyên gia trong và ngoài nước theo mức kinh phí thỏa thuận. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ chịu trách nhiệm đảm bảo việc sử dụng kinh phí đúng mục đích, hiệu quả, tiết kiệm; bảo đảm đầy đủ hóa đơn, chứng từ và chịu trách nhiệm giải trình khi cơ quan chức năng yêu cầu.
GS. Lan cho biết, khi Nghị quyết được triển khai, các nhà nghiên cứu sẽ có quyền chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp nghiên cứu miễn là vẫn đạt được mục tiêu cuối cùng. Đây là bước tiến quan trọng giúp khoa học công nghệ phát triển linh hoạt hơn và có nhiều nghiên cứu tiên phong.
Cơ hội phát triển công nghệ nguồn
Theo GS.TS. Nguyễn Cửu Khoa, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), có cơ chế chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu sẽ giúp thúc đẩy nhà khoa học phát triển các công nghệ nguồn. Đây chính là việc tạo ra các công nghệ lõi, công nghệ mới, do người Việt Nam làm chủ hoàn toàn, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước.
GS. Khoa cho rằng, các công nghệ nguồn thường các nước phát triển giữ bí mật, rất ít khi chuyển giao hoặc bán ra bên ngoài để đảm bảo phát triển khoa học công nghệ của họ. Do đó, Việt Nam cần phát triển nội lực khoa học công nghệ quốc gia.
Ông cho biết, trước đây với một đề tài nghiên cứu phải có khả năng thành công cao hơn 80% mới có thể được triển khai do thường là các công nghệ đã có sẵn hoặc có tính đột biến không cao. Còn các định hướng phát triển công nghệ nguồn, Hội đồng khoa học sẽ rất khó khăn trong đánh giá thực hiện hay không thực hiện do tính rủi ro cao. Tuy nhiên với, “Nghị quyết 57 và Nghị quyết mới được Quốc hội thông qua, hội đồng khoa học sẽ có cơ sở để quyết đoán hơn trong việc đánh giá các đề tài nghiên cứu công nghệ nguồn”, ông Khoa nói.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Lâm, Hội Tự động hóa TP HCM đề xuất những công nghệ nguồn liên quan đến đường sắt tốc độ cao, mạng viễn thông nội địa bảo mật cao, chip bán dẫn, tạo giống cây trồng mới… Việt Nam cần làm chủ.
Theo ông Lâm, những nghiên cứu này có thể không đạt được kết quả cuối cùng nhưng có thể tạo ra một số nền tảng cơ sở để phát triển, có sản phẩm cục bộ, có các công trình công bố, xây dựng được phòng thí nghiệm và đội ngũ chuyên gia giỏi. Các nghiên cứu này có các ứng dụng nhánh và kể cả có kết quả âm vẫn có thể xem xét thuộc yếu tố rủi ro và được miễn trừ trách nhiệm.
Ông cho rằng, việc đánh giá một dự án có dự báo rủi ro và các phương án giải quyết cần có một hội đồng đủ tầm nhìn, kinh nghiệm tham gia thẩm định cũng như giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Theo PGS. Lâm, hội đồng cần có ít nhất ba chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực chuyên ngành của nhiệm vụ. Việc chọn chuyên gia cần dựa trên lý lịch khoa học theo tiêu chí người có tầm nhìn, kinh nghiệm và đang thực hiện các nghiên cứu thuộc lĩnh vực này trong năm năm gần đây. Ngoài ra, các thành viên khác của hội đồng là đại diện của những lĩnh vực liên quan. Đối với những dự án lớn (từ 15-20 tỷ đồng trở lên), số chuyên gia chuyên ngành nên được tăng cường tới năm người. Cơ quan thành lập hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm về tính phù hợp của hội đồng. Khi làm được những việc này, PGS Lâm tin tưởng nhà khoa học sẽ tự tin và tập trung nghiên cứu hiệu quả mà không quan tâm nhiều các vấn đề khác.
Nguồn: VnExpress