Đầu tư mạo hiểm có thúc đẩy đổi mới sản xuất không và nếu có thì bằng cách nào? Tác động của vốn mạo hiểm đối với đổi mới có lớn không? Trả lời những câu hỏi này một cách chính xác là rất quan trọng để thiết kế các chính sách công tốt nhất về đổi mới.
Tác động của vốn đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động đổi mới sáng tạo (ĐMST) của doanh nghiệp
Vốn mạo hiểm là vốn khởi nghiệp, chủ yếu nhằm vào các công ty khởi nghiệp, cung cấp cho họ hỗ trợ tài chính. Đầu tư mạo hiểm bắt nguồn từ Tập đoàn Nghiên cứu và Phát triển Hoa Kỳ (ARD), đã đầu tư 70.000 USD vào Công ty Thiết bị Kỹ thuật số (DEC) vào những năm 1940, nắm giữ 7% cổ phần. Mười năm sau, cổ phần của ARD trị giá 355 triệu USD. Do đó, nó đã trở thành một trường hợp đầu tư mạo hiểm kinh điển. Đầu tư mạo hiểm là đầu tư vốn vào một số dự án công nghệ cao có rủi ro tiềm ẩn tương đối cao và khả năng đổi mới công nghệ cao, để giúp tiếp thị các thành tựu công nghệ cao. Các nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận cao từ việc thực hiện thương mại hóa công nghệ mới.
Thông qua tổng kết các nghiên cứu liên quan về mối quan hệ giữa đầu tư mạo hiểm và đổi mới công nghệ trong những năm gần đây, có thể kết luận rằng, đầu tư mạo hiểm có thể đóng vai trò tích cực trong việc cải thiện hiệu suất đổi mới trong khu vực bằng cách kiểm soát dòng nguồn lực và xu hướng lựa chọn. Đối với đổi mới doanh nghiệp, thường có một bước đột phá đáng kể trước khi nhận vốn đầu tư vốn mạo hiểm.
Đầu tư mạo hiểm đóng vai trò tích cực trong việc cải thiện hiệu suất đổi mới |
Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường đầu tư vào các công ty khởi nghiệp và các công ty khởi nghiệp nhìn chung có rủi ro tương đối cao. Do đó, các quỹ đầu tư mạo hiểm có xu hướng thúc giục các doanh nghiệp đầu tư thực hiện các hoạt động đổi mới để thu được lợi nhuận vượt trội, bù đắp cho những rủi ro cao mà họ phải gánh chịu. Nói cách khác, đầu tư mạo hiểm có lợi tức kỳ vọng lớn hơn đối với đầu tư R&D của các doanh nghiệp mà nó hỗ trợ. Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn vào R&D và đổi mới.
Một khi đầu tư thành công, lợi thế cạnh tranh công nghệ của công ty sẽ nhanh chóng tạo ra lợi ích độc quyền thị trường. Đồng thời, có hàng loạt rủi ro mất mát trong quá trình khởi nghiệp, vì lý do chính là so sánh công nghệ cao với công nghệ công nghiệp truyền thống, thị trường chưa trưởng thành và ổn định. Đối với những doanh nghiệp có giá trị sáng tạo nhưng thiếu hỗ trợ tài chính, các chuyên gia đầu tư mạo hiểm có thể khám phá giá trị của doanh nghiệp thông qua nghiên cứu, phán đoán và quyết định đầu tư. Hoạt động đầu tư mạo hiểm cần hoàn thiện bởi hai chủ thể là các nhà tài năng đầu tư chuyên nghiệp và những người nắm giữ vốn. Vốn được bơm bởi các nhà đầu tư và quản lý vốn được thực hiện bởi các chuyên gia đầu tư mạo hiểm. Các tài năng đầu tư chuyên nghiệp có sự nhạy bén và sáng suốt cao khi đánh giá sự phát triển của các sản phẩm đổi mới khoa học và công nghệ. Họ có thể đầu tư vốn một cách hợp lý vào các ngành công nghệ cao, có tiềm năng tạo ra giá trị gia tăng lớn, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển và tăng trưởng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp này.
Doanh nghiệp công nghệ cao chưa được thị trường thừa nhận công nghệ và sản phẩm của mình. Ngoài ra, khả năng điều hành tổng thể của công ty còn tương đối non nớt. Do đó, các nhà đầu tư bên ngoài khó có thể cung cấp hỗ trợ tài chính cho đổi mới công nghệ của họ trước nhiều bất ổn của thị trường. Một số học giả đã tiến hành điều tra thực nghiệm và nhận thấy rằng, so với các doanh nghiệp không tham gia đầu tư mạo hiểm, các doanh nghiệp có tham gia đầu tư mạo hiểm có năng lực đổi mới mạnh mẽ hơn và nhiều bằng sáng chế hơn. Lý do chính là vốn mạo hiểm có thể cung cấp một quỹ đảm bảo cho R&D của doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy các đối tượng đầu tư tập trung hơn vào đổi mới.
Trong bối cảnh đó, đầu tư mạo hiểm, với tư cách là một phương thức cấp vốn mới, hỗ trợ vốn cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, sẽ giúp các công nghệ mới có triển vọng phát triển thị trường được chuyển thành năng suất thực tế và thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động đổi mới đồng thời đạt được giá trị thị trường. Đầu tư mạo hiểm có thể giúp các doanh nghiệp có hệ thống quản lý không đầy đủ cung cấp các dịch vụ quản lý tư vấn phi vốn như R&D và quản lý vận hành đồng thời giải quyết các vấn đề tài chính của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các nhà đầu tư sẽ chú ý đến việc cải thiện khả năng đổi mới của doanh nghiệp và sử dụng kiến thức chuyên môn về thị trường chuyên nghiệp của họ, để giúp doanh nghiệp hình thành mối liên hệ với các đơn vị bên ngoài như chính phủ, khách hàng và nhà cung cấp. Đầu tư mạo hiểm có thể tham gia quản trị doanh nghiệp dưới hình thức đầu tư cổ phần, giám sát toàn diện doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư mạo hiểm nằm ở trung tâm của các mạng lưới mở rộng và tích cực tạo ra các kết nối tiếp cận với các tập đoàn lớn, trường đại học, tổ chức tài chính và nhiều tổ chức khác đóng vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới.
Những yếu tố quan trọng trong việc thu hút các quỹ đầu tư mạo hiểu cho hoạt động ĐMST
Trong hai thập kỷ qua, thị trường đầu tư mạo hiểm toàn cầu đã ghi nhận mối quan tâm ngày càng tăng của các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực hành tại các nền kinh tế mới nổi. Năm 2019, châu Phi đã báo cáo khoản đầu tư mạo hiểm tổng cộng là 1,34 tỷ USD khớp với 725,6 triệu USD vốn đầu tư mạo hiểm huy động được vào năm 2018.
Nhiều thị trường vốn mạo hiểm thành công nhất trên toàn cầu được xúc tác bởi sự hỗ trợ của chính phủ.
Ở châu Âu, mức thâm hụt lớn của đầu tư mạo hiểm khi so sánh với Mỹ (năm 2010, đầu tư đầu tư mạo hiểm của châu Âu chiếm 0,03% GDP, so với 0,09% ở Mỹ), chỉ ra rằng điều này đã dẫn đến nhiều mức độ phát triển chương trình chính phủ với đầu tư mạo hiểm (GVC) cao hơn để bù đắp. Thật vậy, GVC châu Âu đã tăng gấp đôi lên 1,6 tỷ Euro từ năm 2007 đến 2011, tăng thị phần từ 9,9% lên 39,1% thị trường đầu tư mạo hiểm.
Vốn mồi thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm của chính phủ
Tại Vương quốc Anh, kể từ cuộc khủng hoảng Dotcom, tỷ lệ tài trợ của chính phủ cho đầu tư mạo hiểm giai đoạn đầu đã tăng lên. Mason và Pierrakis (2013) đã tìm thấy mức tăng từ 20% lên 68% từ năm 2000 đến năm 2008.
Ở Israel, ngay từ năm 1993, một quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn 100 triệu USD do nhà nước sở hữu đã được thành lập để đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Chương trình này đã lôi kéo nhiều nhà đầu tư mạo hiểm nước ngoài thành lập quỹ tại Israel, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi nghiệp mỗi năm. Chỉ sau 5 năm, khi thị trường đầu tư mạo hiểm đi vào ổn định, Chính phủ Israel đã cho tư nhân hoá quỹ của mình.
Ở New Zealand, sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân do các quỹ đầu tư mạo hiểm đứng đầu là “các quỹ hỗn hợp”, trong đó chính phủ cung cấp một tỷ lệ vốn để tận dụng nguồn vốn phù hợp từ các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân; được thông qua bởi Quỹ đầu tư mạo hiểm New Zealand (NZIF) vào năm 2002 với 25 triệu bảng của chính phủ.
Ở Uganda, có một số chương trình và cải cách chính sách của chính phủ đã được thiết lập từ năm 2015 đến năm 2016, để các công ty khởi nghiệp giai đoạn đầu dễ dàng tiếp cận nguồn vốn đầu tư mạo hiểm. Sự gia tăng đáng kể của các công ty đầu tư mạo hiểm do chính phủ hậu thuẫn là bằng chứng rõ ràng về cam kết của chính phủ đối với sự phát triển của thị trường đầu tư mạo hiểm.
Có thể thấy, một trong những cách can thiệp trực tiếp nhất vào thị trường vốn mạo hiểm của chính phủ là thành lập công ty quản lý quỹ riêng để quản lý các quỹ do nhà nước cung cấp. Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, sự can thiệp của nhà nước là hiệu quả nhất khi sử dụng nguồn tiền nhà nước khan hiếm, trong khi huy động vốn tư nhân với vai trò của nó thực chất là thúc đẩy GVC đầu tư. Sự can thiệp của chính phủ có thể kích thích nền kinh tế và lấp đầy khoảng trống tài trợ của các dự án đổi mới trên cơ sở ngắn hạn và dài hạn, đặc biệt là vào giai đoạn đầu của vòng đời đổi mới.
Phát triển các vườn ươm công nghệ
Chương trình vườn ươm công nghệ công cộng của Israel đã trở thành một ví dụ đáng để các quốc gia khác noi theo. Từ năm 1990 đến năm 1993, chính phủ Israel đã thành lập 28 cơ sở ươm tạo như một phản ứng trước sự trỗi dậy của dòng người nhập cư lớn cung cấp cho ngành công nghiệp công nghệ cao của Israel nguồn lao động có tay nghề cao.
Một mặt, các vườn ươm công tài trợ cho nhiều hoạt động khác nhau và cung cấp hệ thống hỗ trợ chuyên sâu. Mặt khác, chương trình vườn ươm công nghệ công hỗ trợ các mục tiêu quốc gia như phát triển khu vực và tài trợ cho những người nhập cư mới ở Israel. Hơn nữa, chính phủ tài trợ cho các dự án có rủi ro cao, không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tư nhân hoặc hoạt động trong các lĩnh vực mà các nhà đầu tư tư nhân chọn không hoạt động.
Uganda đã cung cấp 10.000 không gian làm việc tại Khu công nghiệp Namanve cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm đến việc phát triển. Bên cạnh đó, chính phủ đã chủ động tạo ra thị trường kinh doanh trong nước và quốc tế, đặc biệt là cho 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ hàng đầu thông qua liên kết kinh doanh, tập đoàn xuyên quốc gia và chuyển giao công nghệ.
Vai trò của chính phủ trong việc tạo ra các vườn ươm có một số tác động tích cực. Cụ thể, các vườn ươm công cộng đảm bảo sự ổn định cho kế hoạch dài hạn và cung cấp một khuôn khổ an toàn. Ở Bồ Đào Nha, chính phủ chú trọng đáng kể vào việc hỗ trợ các thiên thần kinh doanh (Angel investment) để thúc đẩy các công ty khởi nghiệp ở giai đoạn đầu.
Bên cạnh đó, một trong những lợi thế chính của các vườn ươm công nghệ của chính phủ là chúng có thể hỗ trợ ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm. Nhu cầu về các vườn ươm của chính phủ được chứng minh bởi thực tế là các nhà đầu tư tư nhân sẽ không đầu tư vào một công ty ở giai đoạn R&D sơ khai đầy rủi ro. Hơn nữa, các vườn ươm của chính phủ có thể khuyến khích đầu tư tư nhân vào các lĩnh vực mà họ không mạo hiểm, các vườn ươm công nghệ của chính phủ có thể có tác động tích cực đến ngành đầu tư mạo hiểm bằng cách giảm bớt những hạn chế cố hữu trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm.
Các vườn ươm công cộng còn thúc đẩy chuyển giao kiến thức giữa học viện và ngành công nghiệp, đồng thời giúp nhiều người khởi nghiệp trong ngành công nghệ cao có cơ hội thực hiện ý tưởng của họ, các chương trình của chính phủ Israel – chẳng hạn như chương trình Yozma – cùng với các vườn ươm công nghệ và hỗ trợ các dự án R&D của các trường đại học đóng vai trò chính trong việc đưa quốc gia này trở thành một cường quốc công nghệ cao.
Khuyến nghị cho hoạt động thu hút đầu tư cho ĐMST ở Việt Nam
Trong 5 năm vừa qua, hệ sinh thái ĐMST của Việt Nam đã được thế giới biết đến. WIPO xếp hạng chỉ số ĐMST của Việt Nam đứng thứ 48/132 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2022. Việt Nam dẫn đầu thế giới về nhập khẩu công nghệ cao; đồng thời có sự cải thiện vị trí xếp hạng về đầu ra (thứ hạng 35, năm 2021 là 38). Đặc biệt, Việt Nam cùng với Iran (hạng 53) và Philippines (hạng 59) là 3 nền kinh tế thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng hiệu suất đổi mới nhanh nhất cho đến nay.
Tổng vốn đầu tư vào ĐMST năm 2021 đã vượt qua con số kỷ lục 874 triệu USD năm 2019 và bỏ xa con số 451 triệu USD năm 2020. Thanh toán và Thương mại điện tử vẫn là hai ngành đứng đầu trong việc thu hút vốn đầu tư, tiếp đến là ngành Trò chơi trực tuyến (Gaming) nhờ vào sự thành công trên toàn cầu của Sky Mavis cùng sản phẩm Axie Infinity. Ngoài ra, đại dịch Covid-19 tạo nên sự bùng nổ về lượng giao dịch ở một số ngành mới, từ đó dẫn đến mức tăng trưởng vượt bậc về số tiền đầu tư trong những lĩnh vực này.
Ba ngành nổi bật nhất bao gồm: Y tế, Giáo dục, Chuyển đổi số trong doanh nghiệp với mức tăng trưởng trong năm 2021 lần lượt là 1.016%, 526%, và 205%. Đặc biệt, các vòng gọi vốn lớn xuất hiện trở lại với tổng số giao dịch của các thương vụ trên 10 triệu USD vượt 1 tỷ USD, tăng 255% so với năm trước. Trong khi nguồn vốn chảy vào vòng Seed tăng lên mức cao kỷ lục cả về số lượng và giá trị thương vụ, thì nguồn vốn chảy vào các vòng sau series A đã trở về mức trước Covid-19. Đặc biệt, năm 2021 chứng kiến sự xuất hiện của 05 giao dịch trị giá trên 100 triệu USD trong các lĩnh vực: Thanh toán, Thương mại điện tử và Gaming.
Tuy nhiên, một lượng lớn các startup Việt vẫn phải thành lập các pháp nhân bên ngoài Việt Nam, để thuận lợi cho việc gọi vốn đầu tư mạo hiểm, cũng như mang được dòng tiền đầu tư vào Việt Nam đang là một cản trở cho sự phát triển lành mạnh của hệ sinh thái ĐMST ở Việt Nam.
Thực tế 5 năm phát triển của hệ sinh thái ĐMST của Việt Nam, chưa thấy bóng dáng của Chính phủ trong việc cung cấp vốn cho các công ty khởi nghiệp, chưa có một quỹ đầu tư mạo hiểm nào có sự góp vốn từ nhà nước. Hiện nay, Việt Nam có 2 quỹ hỗ trợ doanh nghiệp là Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF) và Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF), hai quỹ này đều được đánh giá là chưa hiệu quả và không tài trợ cho các doanh nghiệp startup.
Về các vườn ươm khởi nghiệp, hiện nay Việt Nam có khoảng hơn 40 trung tâm ĐMST, vườn ươm khởi nghiệp của nhà nước và tư nhân thuộc các UBND cấp tỉnh, sở khoa học và công nghệ, sở kế hoạch và đầu tư, các trường đại học và một số vườn ươm của tư nhân và đầu tư nước ngoài. Năm 2022, giới đầu tư đánh giá số lượng startup ươm tạo tại các vườn ươm không đủ cung ứng cả chất lượng và số lượng. Các quỹ đầu tư vất vả trong việc chọn startup để đầu tư. Các vườn ươm chưa có được chiến lược trong việc ươm tạo công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, duy nhất có Trung tâm ĐMST Quốc gia là có 5 hướng công nghệ ưu tiên là: Công nghệ an ninh mạng, công nghệ môi trường, công nghệ nhà máy thông minh, đô thị thông minh và công nghệ truyền thông số. Tuy nhiên, việc ươm tạo các công nghệ này cũng chưa rõ nét, đặc biệt là thiếu một nguồn vốn tài trợ ban đầu và đây cũng là khó khăn của toàn bộ các vườn ươm công nghệ và trung tâm ĐMST trong cả nước.
Chưa có một số liệu thống kê chính thức về số lượng startup hàng năm trong cơ sở dữ liệu đăng ký kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng như của các sở kế hoạch và đầu tư, khi không có dữ liệu để phân loại và thống kê số lượng startup doanh nghiệp tăng giảm hàng năm.
Những yếu tố trên là một trong những nguyên nhân chính sẽ hạn chế việc Chính phủ có kế hoạch phân bổ các nguồn lực có sẵn hoặc sẽ huy động các nguồn lực quốc tế đến Việt Nam cho hệ sinh thái ĐMST của quốc gia. Để có thể thu hút được nhiều nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư mạo hiểm quốc tế đến Việt Nam, chúng ta cần thực hiện một số nội dung sau:
Về mặt pháp lý
– Chính phủ nên xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động đầu tư cho doanh nghiệp ĐMST và khởi nghiệp. Nên có Luật Đầu tư mạo hiểm. Đây là một loại hình đầu tư mới du nhập vào Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, trên thế giới đã được phát triển khoảng 70 năm trước và thành tựu nổi bật ở Hoa Kỳ cũng như ở một số quốc gia khác, khi họ đều có hành lang pháp lý cho hoạt động này khá chặt chẽ.
– Cần có các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMST trong nước phát triển, đặc biệt là với các ngành công nghệ cao, ngành nghề kinh doanh phi truyền thống.
– Trao quyền tự do cho các nguồn vốn trong nước, quỹ nội địa tự do kinh doanh, đầu tư vào hoạt động ĐMST.
– Sửa đổi một số nghị định để có thể thống kê được chính xác số lượng doanh nghiệp startup gia nhập thị trường hàng năm.
Về thực hành
– Xây dựng, phát triển nhiều vườn ươm công nghệ công và tư, để thúc đẩy việc ươm tạo doanh nghiệp ĐMST, tạo ra nhiều doanh nghiệp ĐMST.
– Mở nhiều chương trình đào tạo doanh nhân, giáo dục doanh nhân sáng tạo, thay vì tổ chức các hội thảo, hội nghị.
– Tổ chức các diễn đàn ĐMST quốc tế và khu vực, để thế giới biết và có cơ hội tìm hiểu thị trường và hệ sinh thái ĐMST của Việt Nam.
– Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao từ các trường đại học.
– Giáo dục STEM từ bậc tiểu học.
Sau đại dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp trong nước đã giải các bài toán trong các lĩnh vực thương mại điện tử, logistics, chăm sóc sức khỏe bằng các công nghệ hiện đại, ngang với các startup trên toàn cầu, nên rất cần Chính phủ can thiệp đúng thời điểm bằng các chính sách để thúc đẩy nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, phát triển các vườn ươm công và tư, để có một hệ sinh thái ĐMST lành mạnh làm “bà đỡ” cho doanh nghiệp sáng tạo công nghệ phát triển đóng góp vào tăng trưởng kinh tế./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu WIPO (2021)
2. Báo cáo Đổi mới Sáng tạo và Đầu tư Công nghệ Việt Nam (2021). NIC-DoVenture
3. Nguyễn Thị Ngọc Dung (2021). Báo cáo các Trung tâm ĐMST và vườn ươm công nghệ
4. Erika Jáki and Endre Mihály Molnár (2021). Venture capital and government involvement from a qualitative systematic literature review perspective, https://akjournals.com/view/journals/032/71/4/article-p645.xml
5. Jeffry A.Timmons, William D.Bygrave (1986). Venture capital’s role in financing innovation for economic growth, https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/0883902686900121
6. Matteo Rossi (2014). The Contribution of Venture Capital to Innovation, https://www.triplehelixassociation.org/helice/volume-3-2014/helice-issue-1/contribution-venture-capital-innovation
7. Roberta Dessí, Nina Yin (2010). The Impact of Venture Capital on Innovation, https://www.researchgate.net/publication/267917566_The_Impact_of_Venture_Capital_on_Innovation
8. The Oxford Handbook of Venture Capital