BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
QUỸ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ QUỐC GIA

Năm 2025: Chuyển đổi số toàn diện để phát triển kinh tế số, tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế

Chiều 6/2, tại Trụ sở Chính phủ diễn ra Phiên họp tổng kết hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Đề án 06. Hội nghị đánh giá kết quả năm 2024 và đề ra phương hướng năm 2025. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh Thủ tướng Phạm Minh Chính đã xác định chủ đề chuyển đổi số năm 2025 là “Chuyển đổi số toàn diện để phát triển kinh tế số, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế.” Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số sẽ triển khai định hướng này trong kế hoạch hành động năm 2025 với phương pháp tiếp cận mới, nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trên diện rộng, góp phần phát triển kinh tế số và nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành

Cổng TTĐT Bộ TT&TT trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tại sự kiện.

Cách đây 5 năm, ứng dụng công nghệ thông tin là phổ biến, chuyển đổi số là rất mới. Chuyển đổi số là mới mẻ không chỉ với Việt Nam mà với cả thế giới. Cái mới thì tinh thần dám khai phá là quan trọng nhất. Ai dám khai phá người đó sẽ dẫn đầu. Chính phủ ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia năm 2020 là một quyết sách mạnh mẽ và tiên phong. 5 năm qua là chặng đường vừa làm vừa khai phá. Và chính tinh thần dám khai phá ấy đã đưa Việt Nam vào nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng về kinh tế số, thương mại điện tử, chính phủ số, dịch vụ công trực tuyến và chuyển đổi số nói chung vào loại nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới.

Việt Nam đặt mục tiêu năm 2030 trở thành nước có thu nhập trung bình cao, khi đó, xếp hạng về thu nhập đầu người của Việt Nam sẽ vào nhóm top 100 toàn cầu. Nhưng hạ tầng số, công nghệ số, công nghiệp số và chuyển đổi số phải đi trước, đi nhanh hơn, xếp hạng quốc tế năm 2030 phải thuộc nhóm top 50 toàn cầu, cao gấp đôi xếp hạng kinh tế.

Về viễn thông, chúng ta đang xếp hạng thứ 72, nhưng tăng bậc khá nhanh. Cách đây 6 năm, năm 2018, Việt Nam xếp hạng 108. 6 năm qua tăng 36 bậc, mỗi năm tăng trung bình 6 bậc. Với tốc độ tăng bậc này, đến năm 2030, viễn thông Việt Nam chắc chắn sẽ vào nhóm top 50 toàn cầu, nếu tích cực hơn nữa thì sẽ vào nhóm top 40.

Về hạ tầng dữ liệu, Việt Nam đang là top 60 toàn cầu. Nếu thu hút được các Big Tech đầu tư vào trung tâm dữ liệu và các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào trung tâm dữ liệu thì đến năm 2030, Việt Nam có thể vào nhóm top 30 toàn cầu.

Về an ninh, an toàn mạng, Việt Nam đang có thứ hạng cao, xếp thứ 17 toàn cầu. Mục tiêu của chúng ta là vào nhóm top 10 toàn cầu.

Về công nghiệp công nghệ số, chúng ta đang có tổng doanh thu trên 150 tỷ $, tăng trưởng trung bình hàng năm 15%. Xét về tổng thể, ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam đã vào top 20. Chúng ta sẽ tiếp tục duy trì thứ hạng cao, phấn đấu vào nhóm top 15 toàn cầu và tăng tỷ trọng giá trị Việt Nam trong công nghiệp công nghệ số đang là 32% lên 50% vào năm 2030.

Về kinh tế số (KTS), Việt Nam xếp thứ 41 về tỷ trọng KTS/GDP, và cũng đang tăng thứ hạng khá nhanh. Năm 2024, KTS của Việt Nam tăng trên 20% và đạt tỷ trọng trong GDP là trên 18%, năm 2025 sẽ đạt và vượt mục tiêu 20%. Chúng ta đặt mục tiêu KTS chiếm 30-35% GDP vào năm 2030, khi đó, Việt Nam sẽ lọt vào nhóm top 30 toàn cầu.

Về chính phủ điện tử (CPĐT)/chính phủ số (CPS), năm 2024, Việt Nam chúng ta xếp thứ 71, tăng 15 hạng sau 2 năm. Chúng ta đang có sự thay đổi nhanh về thứ hạng. Chính phủ đặt mục tiêu 80% hồ sơ dịch vụ công được xử lý trực tuyến toàn trình trong năm 2025. Chỉ cần đến năm 2028 là Việt Nam có thể vào nhóm top 50 toàn cầu về CPĐT/CPS. Và chúng ta đặt mục tiêu năm 2030 sẽ vào nhóm top 40 toàn cầu về CPĐT/CPS.

Như vậy, vào năm 2030, hạ tầng số, công nghệ số, công nghiệp số và chuyển đổi số của Việt Nam phải lọt vào nhóm top 50 toàn cầu, một số lĩnh vực vào top 10-20-30. Đây là mục tiêu rất cao, nhằm đi trước, đi nhanh, lọt vào nhóm các nước phát triển, để tạo tiền đề, nền tảng cho phát triển đất nước, cho chuyển đổi số, cho phát triển KTS.

Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị vừa ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, đúng vào dịp 80 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngày 22-12-2024, đây là một nghị quyết chuyên đề đặc biệt quan trọng về đột phá phát triển khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia, với nhiều quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp lớn có tính cách mạng, giống như Nghị quyết Khoán 10 cho nông nghiệp cách đây 40 năm, nhưng lần này là cho KHCN, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia. Từ chỗ thiếu KHCN, ĐMST và chuyển đổi số, chúng ta sẽ tiến tới đủ, thừa, xuất khẩu và xuất khẩu lớn về KHCN, ĐMST và chuyển đổi số, giống như chúng ta đã làm được đối với nông nghiệp.

Nghị quyết Khoán 10 là để thoát nghèo, Nghị quyết 57 là để thoát bẫy thu nhập trung bình. Nghị quyết Khoán 10 là giải phóng sức lao động, Nghị quyết 57 là giải phóng sự sáng tạo. Tinh thần chung của cả Nghị quyết Khoán 10 và Nghị quyết 57 là quản lý theo mục tiêu, không quản cách làm, là trao quyền tự chủ và trách nhiệm cho người làm, chấp nhận rủi ro và đánh giá người làm dựa trên hiệu quả tổng thể, là người làm được hưởng lợi từ thành quả lao động và sáng tạo.

Nghị quyết 57 xác định, bộ 3 KHCN, ĐMST và chuyển đổi số là 3 trụ cột chính để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Trong đó, KHCN là nền tảng, nó tạo ra tri thức mới và công nghệ mới. ĐMST là động lực, nó chuyển hoá các tri thức mới, công nghệ mới thành ý tưởng mới, giải pháp mới. ĐMST để biến các kết quả nghiên cứu thành sản phẩm mới, dịch vụ mới, quy trình mới, tạo ra các giá trị thực tiễn để phát triển KT-XH.

Chuyển đổi số là chuyển mọi hoạt động lên môi trường số, là số hoá thế giới thực tạo thành một không gian mới – không gian số, cung cấp nền tảng kỹ thuật số, công cụ số, dữ liệu số và khả năng kết nối số để tăng tốc và mở rộng quy mô ứng dụng KHCN và ĐMST. Chuyển đổi số tạo ra không gian số – đất dụng võ mới, môi trường lý tưởng cho KHCN và ĐMST, thuận lợi đến mức các cá nhân cũng có thể ứng dụng KHCN để tham gia ĐMST. Như chúng ta thấy, công nghệ hiện nay chủ yếu là công nghệ số, hoặc dựa trên công nghệ số, ĐMST hiện nay thì cũng chủ yếu là ĐMST số. Chuyển đổi số tạo ra môi trường và công cụ để hiện thực hoá nhanh chóng các ý tưởng, giải pháp ĐMST.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đặt chủ đề chuyển đổi số cho năm 2025: Chuyển đổi số toàn diện để phát triển kinh tế số, tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chuyển đổi số, KTS có thể đóng góp tới 3% vào tăng trưởng GDP hàng năm của các nước đang phát triển. Tăng trưởng kinh tế dựa trên các yếu tố truyền thống đã dần tới hạn, bởi vậy, phải tìm các động lực mới, đó là chuyển đổi số và KTS. Đẩy nhanh chuyển đổi số lúc này có ý nghĩa quyết định cho tăng trưởng cao về kinh tế, đặc biệt là đối với phần tăng thêm trên 7%. Tăng 7% là bằng các động lực cũ, tăng trên 7% phải dựa trên các động lực mới, nhất là KHCN, ĐMST, chuyển đổi số và KTS.

Chúng ta sẽ triển khai định hướng này trong kế hoạch hành động năm 2025 của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số, với cách làm mới. Thứ nhất, đặt mục tiêu cao để tìm giải pháp, cách làm đột phá, để tìm ra người tài, để tạo ra sự phát triển bứt phá. Thứ hai, các nhiệm vụ phải được lượng hoá thành mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Ba là giao nhiệm vụ cho người đứng đầu phụ trách trực tiếp. Thứ tư, nhiệm vụ sẽ đi kèm phân bổ nguồn lực phù hợp để triển khai. Thứ năm, xây dựng công cụ đo lường trực tuyến kết quả thực hiện theo quí, năm, định kỳ đánh giá và công bố công khai. Thứ sáu, kết quả thực hiện là cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt là với người đứng đầu.

Về một số nhiệm vụ quan trọng ngay trong đầu năm 2025:

  • 1- Các bộ, ngành và địa phương khẩn trương xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW;
  • 2- Thuê trung tâm điện toán đám mây dùng riêng cho chính phủ để hỗ trợ nhanh các dự án chuyển đổi số khi Trung tâm dữ liệu quốc gia chưa xong, xây dựng trung tâm tính toán AI hiệu năng cao dùng chung để hỗ trợ phát triển công nghệ và các ứng dụng AI;
  • 3- Tất cả các bộ, ngành, địa phương hoàn thành trung tâm điều hành thông minh để chỉ đạo, điều hành trực tuyến và dựa trên dữ liệu, và kết nối với Trung tâm điều hành của Chính phủ;
  • 4- Các bộ, ngành và địa phương xây dựng các CSDL chuyên ngành đã công bố, đặc biệt là CDSL đất đai;
  • 5- Các nhà mạng phủ sóng 5G toàn quốc, nâng gấp ba tốc độ di động.

Nguyễn Mạnh Hùng
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số

Hội nghị Thượng đỉnh P4G 2025: Tăng trưởng xanh bền vững và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam

Chiều ngày 16/4/2025, Hội nghị Thượng đỉnh Đối tác vì Tăng trưởng xanh và Mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) lần thứ tư chính thức khai mạc tại Hà Nội, với sự tham gia của hơn 1.000 đại biểu đến từ hơn 40 quốc gia và các tổ chức quốc tế. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đăng cai một sự kiện cấp cao đa phương về tăng trưởng xanh, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong cam kết về phát triển bền vững.
Lễ khai mạc Hội nghị P4G 2025 có sự tham dự của Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng; Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone, Thủ tướng Ethiopia Abiy Ahmed Ali và Phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Amina J. Mohammed… cùng đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp.

Phát biểu khai mạc Hội nghị P4G 2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định tầm quan trọng của Hội nghị trong việc thúc đẩy hợp tác công-tư, giúp kết nối các Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức xã hội để cùng đưa ra các giải pháp và chính sách đột phá nhằm đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc đến năm 2030.

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, trong bối cảnh đối diện với những thách thức lớn về biến đổi khí hậu, thiên tai, ô nhiễm môi trường và sự cạn kiệt tài nguyên, chuyển đổi xanh là một xu thế tất yếu và là chiến lược của tất cả các quốc gia trên thế giới.

Chủ đề của Hội nghị P4G lần này là “Chuyển đổi xanh bền vững, lấy con người làm trung tâm” phản ánh khát vọng chung của tất cả các quốc gia và dân tộc hướng đến một thế giới tươi đẹp hơn, nơi con người là mục tiêu, động lực và là nguồn lực cho sự phát triển bền vững. Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, trong quá trình chuyển đổi xanh, các quốc gia cần phải đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương.

Thủ tướng khẳng định, một nền kinh tế xanh không thể thiếu các doanh nghiệp xanh; một xã hội xanh cần có công dân xanh và một thế giới xanh cần các quốc gia xanh. Việc tham gia và đóng góp vào quá trình chuyển đổi xanh không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi của tất cả các quốc gia. Thủ tướng chỉ rõ, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy chuyển đổi xanh, và thị trường đóng vai trò dẫn dắt trong sự thay đổi này.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chia sẻ, Việt Nam xác định chuyển đổi xanh là yêu cầu tất yếu và là động lực quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Với sự tiến bộ trong phát triển năng lượng tái tạo và nông nghiệp xanh, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực bước đầu và cam kết sẽ tiếp tục triển khai các chính sách xanh để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Thủ tướng cho biết, tại Hội nghị, Việt Nam đã đưa ra ba đề xuất quan trọng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh toàn cầu. Đó là:

Thứ nhất, cần hoàn thiện tư duy xanh, đặc biệt là phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số gắn với tăng trưởng xanh.

Thứ hai, xây dựng một cộng đồng xanh trách nhiệm, với sự phối hợp giữa chính phủ, khu vực tư nhân và cộng đồng khoa học.

Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và phát triển các mô hình hợp tác xanh như hợp tác công-tư (PPP), hợp tác Nam-Nam và Bắc-Nam.

Việt Nam hoan nghênh các sáng kiến quốc tế như P4G vì đã tạo ra những mô hình hợp tác thực tế, hiệu quả, mang lại động lực mạnh mẽ cho chuyển đổi xanh. Việt Nam cam kết sẽ tiếp tục đóng góp vào quá trình này, tạo nền tảng cho các sáng kiến, công nghệ đột phá được triển khai trên toàn cầu.

Phát biểu tại Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chia sẻ những thông điệp chính sách quan trọng của Việt Nam về phát triển bền vững và chuyển đổi xanh.

Tổng Bí thư cho biết, Việt Nam đang nỗ lực không ngừng để vươn tới một kỷ nguyên phát triển thịnh vượng và bền vững, góp phần xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.

Việt Nam đang tập trung vào các giải pháp chiến lược để thúc đẩy phát triển, bao gồm cải cách thể chế, mở cửa nền kinh tế và khơi thông các nguồn lực để phát triển. Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh vai trò then chốt của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và các mô hình phát triển bền vững.

Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời và sẽ tiếp tục thúc đẩy mô hình nông nghiệp xanh. Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh các sáng kiến quốc tế về tăng trưởng xanh và chuyển đổi năng lượng, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn lực từ bên ngoài để đạt được các mục tiêu về phát triển bền vững.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết và sáng tạo để xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển bền vững và bao trùm. Việt Nam cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh các cam kết quốc tế về chuyển đổi năng lượng và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Việt Nam mong muốn hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để phát triển các sáng kiến mới, tạo ra động lực cho sự chuyển đổi xanh toàn cầu. Tất cả những nỗ lực này đều vì mục tiêu bảo vệ và gìn giữ Trái đất, ngôi nhà chung của toàn nhân loại.

Hội nghị P4G 2025 là một bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh toàn cầu, nơi các quốc gia cùng nhau hợp tác để giải quyết những thách thức lớn của thế kỷ 21. Với cam những kết mạnh mẽ và hành động cụ thể, Việt Nam đang chứng tỏ vai trò lãnh đạo trong chuyển đổi xanh, không chỉ đối với khu vực ASEAN, mà còn đối với thế giới. Hội nghị này sẽ tiếp tục là một động lực lớn, thúc đẩy hợp tác quốc tế và triển khai các giải pháp đột phá để đảm bảo một tương lai xanh, bền vững cho thế hệ mai sau.

Sau khi Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc, Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu thông điệp chính sách, Hội nghị đã nghe các phát biểu của Thủ tướng Ethiopia, Thủ tướng Lào, Phó Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc và Chủ tịch Viện Tài nguyên thế giới Ani Dasgupta./.

Đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến chỉ số phát triển con người

Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, con người ngày càng được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chiến lược và chính sách phát triển. Vậy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) có vai trò gì trong việc nâng cao chất lượng con người? Làm sao để định hướng nghiên cứu KH,CN&ĐMST nhằm phát huy hiệu quả nhân tố con người?
Đó là những vấn đề trọng tâm được đặt ra tại Hội thảo khoa học “Đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến chỉ số phát triển con người (HDI)”, do Vụ Khoa học Xã hội Nhân văn và Tự nhiên, Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước cùng Ban chủ nhiệm Chương trình KX.03/21-25 và KX.05/21-25 phối hợp tổ chức sáng 17/4/2025 tại Hà Nội.
KH,CN&ĐMST – Động lực then chốt phát triển bền vững
Chỉ số phát triển con người (HDI) được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) công bố từ năm 1990 phản ánh ba khía cạnh cơ bản của phát triển: Tuổi thọ, trình độ học vấn và thu nhập bình quân đầu người. Đây là chỉ số quan trọng để đánh giá sự tiến bộ về kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục.
Hội thảo nhằm cụ thể hóa mục tiêu KH,CN&ĐMST phải góp phần quan trọng xây dựng và phát triển giá trị văn hóa, xã hội và con người Việt Nam, hướng đến duy trì chỉ số HDI trên 0,7 đã nêu trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về phát triển KH,CN,ĐMST và chuyển đổi số (CĐS).
Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung làm rõ vai trò của KH,CN&ĐMST trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển bền vững và cải thiện HDI, từ đó đưa ra các đề xuất, định hướng nghiên cứu cụ thể, thiết thực. Đồng thời, thảo luận làm rõ những vấn đề lý luận để thống nhất nhận thức về những đóng góp quan trọng của KH,CN&ĐMST trong việc xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam.
Ba nội dung chính được thảo luận tại Hội thảo gồm: Đóng góp của KH,CN&ĐMST vào chỉ số HDI duy trì trên 0,7; định hướng nghiên cứu và giải pháp tổ chức hoạt động khoa học xã hội và nhân văn đến năm 2030 gắn với xây dựng và phát triển giá trị văn hóa, xã hội và con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người duy trì trên 0,7; kinh nghiệm quốc tế về phát huy vai trò của KH,CN&ĐMST trong nâng cao HDI.
Theo GS.TS. Phạm Văn Đức, Phó Chủ nhiệm Chương trình KX.05/21-25, KH,CN&ĐMST đóng vai trò trung tâm trong việc cải thiện chất lượng sống và thúc đẩy phát triển bền vững, giúp giải quyết những vấn đề thiết yếu như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và môi trường.
Các tiến bộ về y học (như công nghệ gene, y học chính xác…) không chỉ kéo dài tuổi thọ mà còn nâng cao chất lượng sống. Trong khi đó, công nghệ thông tin và truyền thông đã mở ra cơ hội học tập rộng lớn, cải thiện khả năng tiếp cận tri thức.
Bên cạnh đó, KH&CN cũng góp phần thúc đẩy năng suất lao động, phát triển công nghiệp và gia tăng thu nhập, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 với các công nghệ như tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật.
Cùng với KH&CN, ĐMST không chỉ là yếu tố quyết định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các quốc gia, mà còn là yếu tố quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. ĐMST tạo ra các giải pháp mới cho những thách thức hiện tại, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Các doanh nghiệp ĐMST có vai trò quan trọng trong việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, cải thiện điều kiện sống, nâng cao năng suất lao động và từ đó tăng trưởng thu nhập cho xã hội.
Nêu quan điểm về vai trò của KH,CN&ĐMST đối với phát triển con người trong kỷ nguyên mới, GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chủ nhiệm Chương trình KX.03/21-25 khẳng định, con người là giá trị cốt lõi trung tâm, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển đất nước. KH,CN,ĐMST và CĐS vì con người và tác động mạnh mẽ đến kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Phát triển con người và HDI Việt Nam trong bối cảnh hiên nay
Theo GS.TS. Phạm Văn Đức, trong các chỉ số kinh tế truyền thống như GDP có thể phản ánh một phần sự phát triển, HDI mang đến cái nhìn toàn diện hơn, bao gồm cả yếu tố chất lượng sống và cơ hội phát triển của người dân. Vì vậy, nâng cao HDI không chỉ là một mục tiêu kinh tế, mà còn là một mục tiêu xã hội, góp phần hướng đến một xã hội phát triển bền vững. Để cải thiện HDI, KH,CN&ĐMST có vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để phát huy vai trò của KH,CN&ĐMST trong kỷ nguyên mới, GS.TS. Võ Khánh Vinh kiến nghị, cần hình thành, xây dựng tư duy mới về con người, phát triển con người theo hướng tiếp cận vượt trội, đột phá, tiên phong. Cần có cách tiếp cận đa ngành, đa phương diện, liên ngành, tích hợp để phát triển tổng thể, toàn diện con người Việt Nam. Phát triển toàn diện, bao trùm con người, quyền con người, nâng cao thể lực, trí tuệ, năng lực, kỹ năng con người Việt Nam để phát huy vai trò con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể, nguồn lực và động lực trong phát triển đất nước. Xây dựng một chương trình nghiên cứu mới về con người và phát triển con người Việt Nam trong Kỷ nguyên phát triển mới của đất nước…
PGS.TSKH. Lương Đình Hải, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, HDI là một trong những biểu hiện cụ thể của việc định lượng sự phát triển con người ở góc độ cụ thể. HDI là thước đo định lượng về phát triển con người rất quan trọng hiện nay, đang được sử dụng ngày càng phổ biến trên thế giới. KH,CN và cách mạng khoa học công nghệ (CMKHCN) đang tác động đến điều kiện tồn tại và phát triển của con người thông qua công nghệ và sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng. Đồng thời, KH,CN và CMKHCN đến các quan hệ xã hội, thể lực, trí lực, tâm lực, kỹ lực, an ninh của con người.
Để KH,CN và CMKHCN góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phát triển con người Việt Nam, Theo TS. Vũ Thị Thanh, Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới nêu ý kiến, cần chú trọng cả việc tăng và duy trì HDI trên 0,7 cả việc nâng cao chất lượng phát triển con người, cải cách thể chế KH&CN và tháo gỡ các rào cản cho KH&CN phát triển, tháo gỡ các điểm nghẽn để thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN…
Hội thảo đã ghi nhận 11 báo cáo tham luận và nhiều ý kiến sâu sắc về vai trò và đóng góp của KH,CN&ĐMST đối với phát triển chỉ số HDI và đã đưa ra đề xuất, kiến nghị:
(1) Nghiên cứu phát triển chỉ số về phát triển con người chỉ là một phần của phát triển con người; (2) Xây dựng một chương trình nghiên cứu khoa học riêng về con người, trong đó làm thế nào để nâng cao chỉ số phát triển con người Việt Nam, trong đó có chỉ số HDI; (3) Cần sớm lựa chọn một cơ quan hoặc một tổ chức khoa học thực hiện chức năng nghiên cứu chuyên về con người và theo dõi bộ chỉ số chỉ số phát triển con người để nâng cao chỉ số phát triển người của Việt Nam; (4) Đề nghị Bộ KH&CN thống nhất đưa một trong các chỉ tiêu nghiên cứu “có nội dung nghiên cứu tác động nâng cao chỉ số phát triển người” trong các đề tài thuộc chương trình khoa học xã hội và nhân văn cấp quốc gia; (5) tăng cường tổ chức hội thảo, tọa đàm liên ngành, liên chương trình nhằm cập nhật thực tiễn, chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả nghiên cứu.

Nguồn: Trung tâm Truyền thông KH&CN

Có cơ chế chấp nhận rủi ro, nhà khoa học sẵn sàng dấn thân

GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng nhà khoa học sẽ vượt qua các e ngại, sẵn sàng thực hiện những nghiên cứu chưa từng có khi có cơ chế chấp nhận rủi ro.
Một ngày sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, các nhà khoa học bày tỏ sự tin tưởng, tiếp thêm niềm tin, theo đuổi đam mê nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.
GS. Lan chia sẻ, các nhà khoa học từng e ngại khi dấn thân vào những nghiên cứu mới tạo nền tảng cho sự sáng tạo và phát triển bởi vấn đề rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Bà cho biết, khi dịch tả lợn châu Phi xuất hiện, các nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, do đây là bệnh chưa từng có. Trong quá trình nghiên cứu bệnh này, có khi thu được kết quả, nhưng cũng có lúc không đạt được kỳ vọng ban đầu. Nếu thất bại, họ không được thanh toán các chi phí đã sử dụng cho hóa chất, vật nghiên cứu và đối mặt với áp lực hoàn trả chi phí.
“Điều này không chỉ gây bất lợi mà còn khiến nhà khoa học e ngại khi theo đuổi các vấn đề mới và khó, ảnh hưởng đến động lực nghiên cứu của họ”, GS Lan nói với VnExpress
Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học Việt Nam còn mắc kẹt trong các thủ tục hành chính khi triển khai nghiên cứu, làm giảm động lực sáng tạo. Việc mua hóa chất, vật liệu phục vụ thí nghiệm vẫn bị ràng buộc bởi quy trình đấu thầu, ngay cả khi các sản phẩm này không thể mua theo quy trình thông thường. Có thể kể đến việc thuê động vật, đất trồng, ao nuôi hay mua phụ phẩm nông nghiệp để triển khai các hoạt động thí nghiệm, thử nghiệm. Những dịch vụ này không thể đăng ký đấu thầu trên hệ thống quốc gia.
Ngoài ra việc khoán chi đến sản phẩm cuối cùng khó thực hiện nhưng hồ sơ triển khai nhiệm vụ vẫn phải đấu thầu, thanh toán như khoán từng phần. Điều này cũng làm cho các nhà khoa học có tâm lý ngại nghiên cứu.
Theo bà Lan để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính tiên phong, cần có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các nhà khoa học cần được tạo điều kiện để chấp nhận rủi ro mà không phải lo lắng về hậu quả tài chính. Điều này không chỉ giúp họ tự tin hơn trong việc theo đuổi các ý tưởng mới mà còn góp phần tạo nên những đột phá khoa học, mang lại lợi ích cho toàn xã hội.
Nghị quyết được Quốc hội thông qua sẽ giúp tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước nếu đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định. Đồng thời, nếu nghiên cứu không đạt được kết quả như dự kiến nhưng đã thực hiện đúng quy trình, tổ chức chủ trì không phải hoàn trả kinh phí.
Nghị quyết cũng xác định ngân sách nhà nước khoán chi cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trừ các khoản mua sắm tài sản, thuê dịch vụ bên ngoài và công tác nước ngoài. Khoán chi đến sản phẩm cuối cùng được áp dụng khi tổ chức chủ trì cam kết chỉ tiêu chất lượng chủ yếu cần đạt được.
Bên cạnh đó Nghị quyết cũng trao quyền tự chủ cho các tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ được tự chủ, tự chịu trách nhiệm quyết định việc sử dụng kinh phí khoán; được điều chỉnh các nội dung chi; được quyết định việc sử dụng kinh phí từ công lao động để thuê chuyên gia trong và ngoài nước theo mức kinh phí thỏa thuận. Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ chịu trách nhiệm đảm bảo việc sử dụng kinh phí đúng mục đích, hiệu quả, tiết kiệm; bảo đảm đầy đủ hóa đơn, chứng từ và chịu trách nhiệm giải trình khi cơ quan chức năng yêu cầu.
GS. Lan cho biết, khi Nghị quyết được triển khai, các nhà nghiên cứu sẽ có quyền chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp nghiên cứu miễn là vẫn đạt được mục tiêu cuối cùng. Đây là bước tiến quan trọng giúp khoa học công nghệ phát triển linh hoạt hơn và có nhiều nghiên cứu tiên phong.
Cơ hội phát triển công nghệ nguồn
Theo GS.TS. Nguyễn Cửu Khoa, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), có cơ chế chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu sẽ giúp thúc đẩy nhà khoa học phát triển các công nghệ nguồn. Đây chính là việc tạo ra các công nghệ lõi, công nghệ mới, do người Việt Nam làm chủ hoàn toàn, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước.
GS. Khoa cho rằng, các công nghệ nguồn thường các nước phát triển giữ bí mật, rất ít khi chuyển giao hoặc bán ra bên ngoài để đảm bảo phát triển khoa học công nghệ của họ. Do đó, Việt Nam cần phát triển nội lực khoa học công nghệ quốc gia.
Ông cho biết, trước đây với một đề tài nghiên cứu phải có khả năng thành công cao hơn 80% mới có thể được triển khai do thường là các công nghệ đã có sẵn hoặc có tính đột biến không cao. Còn các định hướng phát triển công nghệ nguồn, Hội đồng khoa học sẽ rất khó khăn trong đánh giá thực hiện hay không thực hiện do tính rủi ro cao. Tuy nhiên với, “Nghị quyết 57 và Nghị quyết mới được Quốc hội thông qua, hội đồng khoa học sẽ có cơ sở để quyết đoán hơn trong việc đánh giá các đề tài nghiên cứu công nghệ nguồn”, ông Khoa nói.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Lâm, Hội Tự động hóa TP HCM đề xuất những công nghệ nguồn liên quan đến đường sắt tốc độ cao, mạng viễn thông nội địa bảo mật cao, chip bán dẫn, tạo giống cây trồng mới… Việt Nam cần làm chủ.
Theo ông Lâm, những nghiên cứu này có thể không đạt được kết quả cuối cùng nhưng có thể tạo ra một số nền tảng cơ sở để phát triển, có sản phẩm cục bộ, có các công trình công bố, xây dựng được phòng thí nghiệm và đội ngũ chuyên gia giỏi. Các nghiên cứu này có các ứng dụng nhánh và kể cả có kết quả âm vẫn có thể xem xét thuộc yếu tố rủi ro và được miễn trừ trách nhiệm.
Ông cho rằng, việc đánh giá một dự án có dự báo rủi ro và các phương án giải quyết cần có một hội đồng đủ tầm nhìn, kinh nghiệm tham gia thẩm định cũng như giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Theo PGS. Lâm, hội đồng cần có ít nhất ba chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực chuyên ngành của nhiệm vụ. Việc chọn chuyên gia cần dựa trên lý lịch khoa học theo tiêu chí người có tầm nhìn, kinh nghiệm và đang thực hiện các nghiên cứu thuộc lĩnh vực này trong năm năm gần đây. Ngoài ra, các thành viên khác của hội đồng là đại diện của những lĩnh vực liên quan. Đối với những dự án lớn (từ 15-20 tỷ đồng trở lên), số chuyên gia chuyên ngành nên được tăng cường tới năm người. Cơ quan thành lập hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm về tính phù hợp của hội đồng. Khi làm được những việc này, PGS Lâm tin tưởng nhà khoa học sẽ tự tin và tập trung nghiên cứu hiệu quả mà không quan tâm nhiều các vấn đề khác.
Nguồn: VnExpress

Bộ Khoa học và Công nghệ phân công công việc giữa Bộ trưởng và các Thứ trưởng

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ vừa ban hành Quyết định phân công công việc giữa Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng và các Thứ trưởng: Bùi Thế Duy, Phạm Đức Long, Lê Xuân Định, Hoàng Minh và Bùi Hoàng Phương.

Đổi mới cơ chế quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0

Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là tiêu chí quyết định sự lựa chọn của người tiêu dùng, là yếu tố tạo nên vị thế và tầm ảnh hưởng của doanh nghiệp, tác động đến uy tín và sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Vì vậy, việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa luôn là ưu tiên hàng đầu được Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, yêu cầu phải đổi mới phương thức quản lý, đảm bảo giá trị sản phẩm, hàng hóa và môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thực sự cấp thiết.

Kinh nghiệm quốc tế về các chính sách đổi mới công nghệ và bài học cho Việt Nam

Trước những thách thức và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều quốc gia như Đức, Hàn Quốc, Israel… đã xây dựng, triển khai các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, trong đó tập trung thúc đẩy nghiên cứu và phát triển (R&D), khuyến khích áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh. Mỗi quốc gia đã phát triển chiến lược cụ thể nhằm nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp, từ đó tạo ra những sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, giúp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đây là những kinh nghiệm giá trị Việt Nam có thể tham khảo.

Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông KH,CN&ĐMST

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Hoàng Giang nhấn mạnh, để hoạt động truyền thông khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) ngày càng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng, Bộ KH&CN sẽ phối hợp chặt chẽ với các viện, trường đào tạo báo chí, truyền thông tổ chức các khóa tập huấn; tăng cường gắn kết, chia sẻ thông tin về các định hướng cơ chế chính sách, thành tựu, vấn đề thực tiễn đặt ra của ngành… để kịp thời đáp ứng nhu cầu thông tin, nâng cao hiệu quả công tác truyền thông KH,CN&ĐMST.

Sơ kết công tác sáu tháng đầu năm 2024 và tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật

Ngày 29/6/2024 tại Thanh Hóa, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia đã tổ chức Hội nghị “Sơ kết công tác sáu tháng đầu năm và tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật”. Tham dự Hội nghị có đại diện Ban Giám đốc, Ban chấp hành Công đoàn và toàn thể viên chức, người lao động của Quỹ.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về biện pháp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ

TCCS – Đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học và công nghệ là một trong những khâu đột phá, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động và bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững cho các quốc gia. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ tầm quan trọng và từ đó xác định nội dung, biện pháp, điều kiện thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở Việt Nam. Những quan điểm đó vẫn vẹn nguyên giá trị đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo ở nước ta hiện nay.